Kích thước 88 x 63 x 39 mm và nặng 189 g cả pin và thẻ nhớ, FE-100 hầu như không có gì khác so với FE-110 về mặt tính năng lẫn kiểu dáng. Điểm khác biệt duy nhất là độ phân giải chip cảm quang - FE-100 dùng cảm biến 4 triệu điểm ảnh, kém độ phân giải của FE-110 1 triệu điểm ảnh. Giá bán của máy cũng vì thế mà giảm đi 25 USD so với FE-110 (175 USD).
Với thân máy khá kiểu cách với những đường cong uốn lượn và lớp vỏ plastic màu bạc, FE-100 trông sang trọng hơn nhiều so với nhiều máy ảnh cùng mức giá. Máy rất dễ cầm bằng một tay, nhưng cầm bằng hai tay là điều nên làm nếu bạn là người mới biết chụp ảnh.
Ngoài nút bấm chụp, bộ phận duy nhất nằm trên đỉnh của FE-100 là nút nguồn. Tất cả nút, thanh gạt và bánh xe điều khiển khác được bố trí bên dưới và bên phải màn hình LCD 1,8 inch, độ phân giải 130.000 pixel. Khe ngắm quang học nằm gần các nút điều khiển chế độ chụp và xem lại. Một đèn LED gần đó báo cho người sử dụng biết máy đang ở chế độ nào. Bánh xe chọn chế độ chỉ có 6 vị trí, dành cho chế độ phơi sáng lập trình, chân dung, phong cảnh, đêm, tự chụp chân dung và quay video. Mỗi nút trong tổ hợp điều chỉnh hướng với nút OK ở giữa đảm nhận thêm một chức năng ngoài chức năng điều chỉnh hướng, gồm chọn chế độ chụp hẹn giờ (nút trái), chụp cận cảnh (phải), chụp bù trừ độ phơi sáng (lên) và reset (xuống).
Màn hình của FE-100 luôn luôn hiển thị lời giải thích các chế độ cảnh chụp và chức năng của mỗi phím trong tổ hợp điều chỉnh hướng. Hệ thống menu được thiết kế đơn giản vì không có nhiều tuỳ chọn. Nếu vào menu, người chụp chỉ có thể lựa chọn các thông số: mức chất lượng ảnh, thời gian/ngày tháng/ngôn ngữ, thời gian hẹn giờ, sao lưu dự phòng (vào thẻ nhớ xD-Picture), chế độ xuất video (NTSC hay PAL), định dạng thẻ nhớ và định vị điểm ảnh (giúp chuyển những điểm ảnh "chết" ra khỏi vùng ảnh). Các thông số cân bằng trắng, độ nhạy sáng (từ ISO 64 đến ISO 400), lấy nét, phơi sáng được thiết lập tự động và không thay đổi được.
FE-100 sở hữu các tính năng cơ bản. Máy dùng ống kính tiêu cự 38-106 mm, tương đương độ zoom quang 2,8x. Không có chế độ chụp liên tiếp, song khả năng chụp cận cảnh của máy khá tốt so với nhiều máy ảnh cùng mức giá: có thể lấy nét đối tượng cách ống kính 5 cm ở chế độ chụp siêu cận cảnh. Đây không phải là camera lý tưởng dành cho việc quay phim, bởi nó chỉ quay được video ở độ phân giải 320 x 240 pixel với tốc độ 15 hình/giây và không kèm âm thanh.
Màn hình LCD không có gì đáng nói. Nó bị loá dưới ánh sáng mạnh, đôi khi bị hiện tượng "bóng ma", và không có khả năng tự động tăng độ sáng khi chụp trong môi trường thiếu sáng. Olympus cũng không trang bị khe ngắm để thay thế cho màn hình những lúc cần thiết.
Ảnh do FE-100 chụp có chất lượng trên mức trung bình, với độ phơi sáng tốt, giữ được chi tiết trong những vùng tối và sáng, nhưng có xu hướng bị loá ở những vùng sáng nhất. Tuy nhiên, hạt bắt đầu hiện rõ khi phóng to ảnh, và các hiện tượng quang học như viền tím cũng xuất hiện quanh những đối tượng có ánh sáng nền. Màu sắc trung tính và có phần hơi thiếu bão hoà, với xu hướng ngả sang màu ấm ở cả những cảnh chụp trong nhà và ngoài trời. Mức nhiễu chấp nhận được ở ISO 64 nhưng trở nên không kiểm soát nổi trong điều kiện ánh sáng yếu vì máy tự động tăng độ nhạy sáng lên ISO 400.
FE-100 không phải là máy ảnh có thời gian đáp ứng nhanh. Máy mất 8 giây để khởi động; thời gian chờ giữa 2 ảnh là 5-6 giây, tăng lên 8,24 giây khi chụp với đèn flash. Tốc độ lấy nét tự động đạt mức trung bình, với độ trễ màn trập là 0,75 giây trong môi trường ánh sáng có độ tương phản cao và 1,2 giây nếu nguồn sáng có độ tương phản thấp. Máy không có đèn trợ sáng lấy nét.
Việt Linh (theo Cnet)