![]() |
Giếng khoan đang khai thác mạch nước ngầm ở vùng nông thôn. |
Theo báo cáo của Liên đoàn địa chất thủy văn - địa chất công trình miền Nam, trên bản đồ đẳng mực hạ thấp từ năm 2002 đến nay cho thấy 3 khu vực có mức hạ thấp lớn là nông trường Phạm Văn Cội huyện Củ Chi (mức hạ thấp là 0,4-0,8 m), xã Vĩnh Lộc huyện Bình Chánh và huyện Nhà Bè đều có mực hạ thấp 0,38-0,77 m/năm.
Đánh giá của Liên đoàn cho rằng, do tình trạng khai thác nước dưới đất ngày càng tăng, vượt quá khả năng cung cấp của tầng chứa nước nên mực nước có xu hướng ngày càng hạ thấp. Nước mặn vì vậy cũng đang có xu thế di chuyển về các trung tâm khai thác lớn như Nhà máy nước Hóc Môn, Vĩnh Lộc, Bình Hưng, Bình Trị Đông.
"Huyện Củ Chi mặc dù ở xa các nhà máy khai thác nước lớn như Hóc Môn, Gò Vấp nhưng mực nước ngầm hạ thấp hàng năm từ 0,4 đến 0,74 m, điều này cho thấy tình trạng khai thác nước ngầm ở khu vực này đã vượt quá sự cung cấp tự nhiên của tầng chứa nước rất nhiều", tiến sĩ Nguyễn Bá Hoằng, Liên đoàn địa chất thủy văn nhận định.
Thống kê của Phòng Quản lý tài nguyên nước và khoáng sản thuộc Sở Tài nguyên môi trường TP HCM cho thấy, quận Phú Nhuận mới là khu vực tập trung nhiều giếng khoan khai thác nước ngầm nhất với 872 giếng/km2.
Trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 100.000 giếng khoan khai thác nước ngầm có đường kính và độ sâu khác nhau, phân bố không đều trên các khu vực. Mật độ trung bình 46 giếng/km2. Tầng chứa nước "tốt" Pleistocen tập trung đến gần 79.000 giếng khoan, trong khi tầng trung bình Pliocen có hơn 17.000 giếng. Tổng lượng nước ngầm đang được khai thác trên 500.000 m3/ngày, chiếm trên 30% nhu cầu nước sử dụng của cả thành phố.
Trưởng Phòng quản lý tài nguyên nước và khoáng sản Nguyễn Văn Ngà nhận xét, nước dưới đất của TP HCM đang đối mặt với các thách thức: hàm lượng hợp chất ô nhiễm nitơ, clo tăng trong khi mực nước ngầm giảm. Nghiêm trọng hơn là tình trạng sụt lún đất xung quanh giếng khoan đã xảy ra ở các khu vực quận 11, 12 và một số nơi khác.
Để bảo vệ và khai thác nguồn nước ngầm hợp lý hơn, TP HCM đã có chiến lược quản lý nguồn nước ngầm. Theo đó, thành phố sẽ giảm lượng khai thác nước ngầm vào năm 2007 đạt 520.000 m3/ngày và còn 500.000 m3/ngày đến năm 2010. Song các nhà khoa học địa chất cho rằng, chiến lược quy hoạch chỉ mới chú ý phát triển nguồn nước và xây dựng công trình, chứ chưa quản lý quy hoạch phát triển các lưu vực sông và châu thổ. Đặc biệt cần giám sát chặt hơn nữa tình trạng giếng khoan khai thác nước ngầm và mở rộng mạng lưới cung cấp nước sạch để giảm áp lực cho mạch nước ngầm.
Phan Anh