Bà Hồ mất hôm 13/12, hưởng thọ 94 tuổi, làm y tá, điều dưỡng, kỹ thuật viên gây mê phụ mổ tại Bệnh viện Việt Đức từ năm 1954 đến khi về hưu. Bà là một trong những người sáng lập Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam năm 1990 và là Chủ tịch đầu tiên của hội, nhằm tập hợp và đoàn kết lực lượng điều dưỡng cả nước. Thời điểm này, công việc của y tá - điều dưỡng không được xem trọng dù là người kề cận với người bệnh hơn cả bác sĩ.
Bà Hồ về sau được ngành y tôn vinh là hình mẫu cho người điều dưỡng, nhận nhiều danh hiệu và giải thưởng như Vì sự tiến bộ của Điều dưỡng Việt Nam (2020), Thầy thuốc Ưu tú, Trí thức tiêu biểu của Tổng Hội Y học Việt Nam (2019). Đặc biệt, năm 2016, bà được Hiệp hội Quản lý bệnh viện châu Á trao giải thưởng Cống hiến trọn đời. Đây là giải thưởng uy tín của đơn vị này dành cho cá nhân duy nhất (được lựa chọn hàng năm) cho những cống hiến quan trọng đối với y tế châu Á. Theo ban tổ chức, bà Hồ được vinh danh vì những nỗ lực hết mình và trọn đời của bà cho sự nghiệp chăm sóc người bệnh.
Một ngày sau khi bà mất, GS.TS Đặng Hanh Đệ (86 tuổi, học trò của GS. Tùng) cùng vợ Lê Lan Phương (82 tuổi, bác sĩ gây mê) lần giở những tấm ảnh và kỷ vật của người đồng nghiệp, người bạn lâu năm.
Ông Đệ kể, hồi thập niên 1960, khi bắt đầu phụ mổ cho GS. Tùng tại Bệnh viện Việt Đức, ông Đệ nhớ hình ảnh bà Hồ đi làm bằng chiếc xe đạp cũ, bất kể ngày mưa hay nắng. Thầy Tùng là lãnh đạo bệnh viện nên lúc nào cũng có xe hơi đưa đón, song bà chỉ đi cùng xe với chồng trong những dịp đặc biệt. Mỗi trưa, bà ăn cơm độn hạt cùng mọi người và tuyệt nhiên không bao giờ nhắc đến chồng hay thể hiện mình là vợ giám đốc.
"Bà là vợ nhà khoa học đầu ngành, được trọng vọng và kính nể, nhưng luôn khiêm tốn, nhẹ nhàng, vẫn có cuộc sống riêng, chứ không chỉ sống trên danh nghĩa là vợ của cố GS Tùng", ông Đệ nói.
GS. Tùng là một người chú ý từng động tác, thao tác nhỏ trong cuộc mổ, và chỉ yên tâm khi mọi việc đã được y tá Nguyệt Hồ "tổng duyệt".
"Bất kỳ cuộc mổ nào có bà, mọi người gần như không phải lo nghĩ, chỉ việc phẫu thuật", bác sĩ Lê Lan Phương nói, thêm rằng thời gian đầu bà Hồ tự đưa dụng cụ cho thầy Tùng, sau đó hướng dẫn cho y tá mới thực hiện. Bà luôn căn dặn mọi người phải nắm tình trạng bệnh nhân để xử trí khi có bất thường, đồng thời tìm hiểu ý thích của phẫu thuật viên thì cuộc mổ mới thuận lợi.
Còn theo PGS. TS. Nguyễn Tiến Quyết, nguyên giám đốc Bệnh viện Việt Đức, bà Hồ là trợ thủ đắc lực cho thầy Tùng trong các ca mổ. Bà vừa làm kỹ thuật viên gây mê, vừa quán xuyên công việc, hỗ trợ cho chồng. Câu nói ông Quyết nhớ nhất về bà là "người thầy thuốc phải có tâm, hiểu và hết lòng với bệnh nhân". Bởi vậy, khi 50 tuổi, bà Hồ vẫn tham gia điều trị, chăm sóc bệnh nhân. Năm 90 tuổi, mọi người vẫn bầu bà tiếp tục làm Chủ tịch Hội điều dưỡng Việt Nam.
Cuộc đời bà Hồ có hai nỗi đau không gì bù đắp là mất chồng, mất con. Bác sĩ Đệ nhớ lại, ngày 7/5/1982, GS. Tùng lên cơn nhồi máu cơ tim. Khi ông đến nhà, bà Hồ đang hỗ trợ hô hấp nhân tạo trên giường cho thầy. Bà khóc, nói "anh Tùng bị ngừng tim rồi". Một bác sĩ ra đầu giường đặt nội khí quản bóp bóng, bác sĩ Đệ quỳ lên trên giường bóp tim ngoài lồng ngực, còn bà Hồ bẻ ống thuốc để tiêm cho chồng, không ai nói với ai câu gì. Một lúc sau bà Hồ nói: "Hơi thở có mùi acidose rồi, không còn hy vọng nữa đâu" nhưng mọi người vẫn tiếp tục cấp cứu. Đến khi đường điện tim của GS. Tùng là một đường thẳng, tất cả mới dừng lại.
22 năm sau, năm 2004, PGS. Tôn Thất Bách cũng mất vì nhồi máu cơ tim, trong một chuyến đi công tác xa. "Cú sốc quá lớn, tưởng như bà Hồ ngã quỵ", bà Phương nói. Từ đó bà sống lặng lẽ, thu mình hơn.
Mỗi tháng hai lần bà Hồ đạp xe đến nghĩa trang Mai Dịch để thắp hương cho chồng và con trai - thói quen bắt đầu từ khi ông Tùng mất. Còn ở nhà, bà đều đặn thắp hương buổi sáng và tối. Với bà, góc bàn thờ trở thành nơi lưu giữ di ảnh quý, để thành kính tưởng niệm những người thân yêu đã mất. Bà vẫn giữ nguyên mọi đồ đạc, kỷ vật, sách vở của chồng trong phòng khách, như sự hiện diện hàng ngày của ông trong đời sống của bà. Mỗi năm cứ đến ngày sinh nhật chồng, căn phòng chưa đến 12 m2 tấp nập người quen là những học trò, người bạn cũ và bệnh nhân đến chúc mừng.
"Bởi vậy, khi bà Hồ mất, mọi người tiếc thương, cầu phúc và mong hai cụ sớm gặp lại nhau. Cả hai đều đã sống một cuộc đời đáng sống, trọn vẹn, không còn gì tiếc nuối", bác sĩ Phương chia sẻ.
Anh Viên Hồng Quang, một biên tập viên ảnh tiếp xúc thường xuyên với bà Hồ hai năm cuối đời, cảm phục tình yêu của bà dành cho người chồng đã mất. 40 năm qua, bà Hồ đều pha một cốc cà phê nâu đặt lên bàn làm việc của chồng mỗi sáng - như thói quen của ông lúc sinh thời. Hàng ngày, bà vẫn đọc sách để trí óc minh mẫn và tự làm các công việc vệ sinh cá nhân. Trong ký ức của anh, bà có nụ cười rất đẹp, nhẹ nhàng, hiền lành, khiêm tốn.
Còn với đồng nghiệp, bà là người phụ nữ cởi mở, độc lập, mạnh mẽ. "Bởi vậy, khi bà mất, mọi người nhớ về bà là một y tá Vi Nguyệt Hồ chứ không chỉ là vợ của GS. Tôn Thất Tùng", anh Quang nói.
Bà Vi Thị Nguyệt Hồ (1929-2022) sinh ra trong gia đình quý tộc, là cháu nội của Tổng đốc Vi Văn Định, thông thạo cả tiếng Pháp và Anh. Bà kết hôn với giáo sư Tùng khi tuổi đời còn rất trẻ, sau đó làm việc tại Bệnh viện Việt Đức. Trong kháng chiến chống Pháp, bà đã từng tham gia Hồng Thập tự, tham gia cứu chữa nhiều thương bệnh binh tại chiến khu Việt Bắc.
GS. Tôn Thất Tùng là bác sĩ, nhà khoa học và nhà phẫu thuật nổi tiếng của Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, viện sĩ các viện hàn lâm hàng đầu như Liên Xô, Paris (Pháp)...
Thùy An - Lê Nga