Trường hợp của bạn là hành vi sống chung với người đã có gia đình, được quy định trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Theo đó, luật cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ ( khoản 2, Điều 5).
Do ảnh hưởng tiêu cực của việc chung sống, đặc biệt là chung sống như vợ chồng trái pháp luật nên pháp luật đã quy định cách thức xử phạt với hành vi này.
Về xử phạt hành chính: Theo Nghị định 110/2013, người vi phạm có thể bị phạt 1-3 triệu đồng nếu đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ có chồng hoặc đang có vợ.
Truy cứu trách nhiệm hình sự: Nếu việc sống chung như vợ chồng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì bị cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù 3 tháng đến một năm. Nếu toà án đã buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng mà vẫn tiếp tục thì bị phạt tù 6 tháng đến 3 năm (Điều 147 Bộ luật Hình sự).
Do luật quy định chỉ những trường hợp "biết rõ" đối phương đã có vợ/chồng mà vẫn kết hôn mới được tính là vi phạm, xử phạt. Nếu thực sự không biết người kia đã có vợ, bạn sẽ không thuộc các trường hợp quy định trên.
Như vậy, bạn là người bị hại và không vi phạm pháp luật. Vì thế, điều này không làm ảnh hưởng về mặt pháp lý với công việc, chức vụ của bạn tại cơ quan.
Luật sư Nguyễn Đại Hải
Công ty Luật TNHH Fanci