I. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Quốc hội ban hành năm 1994, qua 9 năm thực hiện, những quy định của Luật đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy nhiên, trước yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, một số quy định của Luật đã bộc lộ những hạn chế, không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Các điểm hạn chế đó là:
1. Cơ cấu, tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Luật quy định chung cho cả ba cấp nên chưa quy định rõ vai trò của mỗi cấp chính quyền; chưa cụ thể hóa được chủ trương, quan điểm các Nghị quyết của Đảng về phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng "Việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó";
2. Thẩm quyền, trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể chưa được làm rõ; các quy định hiện hành chưa tạo cơ sở pháp lý để thực hiện việc luân chuyển cán bộ, cũng như thay đổi chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong trường hợp cần thiết;
3. Quy mô tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được áp dụng chung cho tất cả các cấp hành chính, các đơn vị hành chính như quy định hiện hành là chưa hợp lý, làm hạn chế hiệu quả hoạt động chính quyền ở đô thị.
Những hạn chế nói trên làm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; hiệu quả quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp, tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương bị hạn chế. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm khắc phục những hạn chế đó. Mặt khác, trong các năm 2001 và 2002, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, trong đó có những quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật này là một yêu cầu bức xúc và cần thiết nhằm tiếp tục cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992 về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong nhiệm kỳ mới, phục vụ kịp thời cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2004- 2009) vào năm 2004.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân lần này cần phải bảo đảm các quan điểm sau đây:
+ Tiếp tục cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992;
+ Phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng chính quyền địa phương trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả;
+ Từng bước khắc phục những hạn chế của Luật hiện hành; cụ thể hóa quy định về tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phù hợp với thực tiễn;
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, tăng thẩm quyền để Hội đồng nhân dân thực hiện tốt hơn vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương;
+ Thực hiện chủ trương phân cấp và làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương; thực hiện tốt yêu cầu quản lý ngành và quản lý lãnh thổ; củng cố bộ máy và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở.
II. Về các nội dung của dự án Luật
Trước khi trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, dự án Luật đã được Ủy ban pháp luật của Quốc hội thẩm tra 2 lần (vào tháng 4 và tháng 5/2003), và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 2 phiên họp tháng 4/2003. Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XI, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét cho ý kiến dự án Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) (theo Tờ trình số 561/C - PC ngày 7/5/2003). Quốc hội đã tiến hành thảo luận tại các Tổ đại biểu Quốc hội và thảo luận tại Hội trường về dự án Luật này. Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội thảo luận tại kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo Ủy ban pháp luật, Ban soạn thảo của Chính phủ và các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. Tuy nhiên, để có thêm nhiều ý kiến làm cơ sở cho việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp sau, chúng tôi xin nêu một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau đề nghị các cấp, các ngành cần tập trung thảo luận, cho ý kiến. Cụ thể là:
1. Về bố cục và phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật
a) Về bố cục
Dự thảo Luật trình Quốc hội cho ý kiến bao gồm 5 chương với 68 điều, tăng 5 điều so với Luật hiện hành, trong đó sửa đổi, bổ sung 44 điều và giữ nguyên 24 điều. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành và nâng cấp, đưa các quy định của Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp vào dự thảo Luật. Về vấn đề này, trong quá trình thẩm tra cũng như cho ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền, nhiều ý kiến đồng ý với bố cục của dự thảo Luật, song cũng không ít ý kiến băn khoăn về cách thể hiện nội dung quy định tại các chương, điều, khoản của dự thảo Luật. Chẳng hạn như Chương II quy định về Hội đồng nhân dân có thể chia thành 4 chương đó là chương quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; chương quy định về đại biểu Hội đồng nhân dân; chương về kỳ họp Hội đồng nhân dân; chương quy định về Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân. Tương tự như vậy tại Chương quy định về Ủy ban nhân dân cũng có thể tách ra thành một số chương. Đối với một số điều như điều 11, 13, 15, 43, 45 và 47 có nhiều nội dung và điều luật quá dài, nên mỗi điều luật này cần được tách ra thành các điều khác nhau với nội dung phù hợp.
Việc quy định về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành một mục tại Chương II (mục 3) bên cạnh mục về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, về đại biểu Hội đồng nhân dân, về kỳ họp Hội đồng nhân dân... thì cũng có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị cần được cân nhắc thêm. Hơn nữa, theo Tờ trình của Chính phủ thì các quy định tại Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp đã được đưa vào Luật này, nhưng có ý kiến đề nghị cần nghiên cứu thêm để quy định rõ hơn trong dự thảo Luật, tránh tình trạng ghi lại một cách cơ học những quy định của Pháp lệnh hiện hành; đồng thời cũng cần rà soát lại để nếu thấy rằng những nội dung của Pháp lệnh đã được đưa hết vào dự thảo Luật thì tại Chương "Điều khoản thi hành" cần quy định rõ việc hủy bỏ Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp.
b) Về phạm vi điều chỉnh
Dự thảo Luật dự kiến sửa đổi nhiều vấn đề như quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp trên cơ sở quy định của Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp hiện hành; thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã); quy định Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân khi bầu bổ sung đối với trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân; quy định phê chuẩn việc bổ nhiệm Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, về việc thành lập Văn phòng giúp việc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh riêng... Tuy nhiên, về một số vấn đề cụ thể còn có ý kiến khác nhau.
- Một vấn đề hết sức quan trọng liên quan đến phạm vi sửa đổi Luật này mà liên quan tới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã được đặt ra trong nhiều năm nay thì lại chưa được nghiên cứu kỹ để sửa đổi. Chẳng hạn, chưa có quy định cụ thể, chưa phân biệt được chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị và ở nông thôn; trong nhiều trường hợp còn chưa phân biệt được rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; chưa phân định rõ sự khác nhau về tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở từng cấp hành chính (tỉnh, huyện, xã) cũng như ở mỗi cấp trên cơ sở quy mô, đặc điểm của mỗi đơn vị hành chính, ví dụ đều là cấp tỉnh, nhưng có tỉnh chỉ có vài ba chục vạn dân, trong khi đó lại có những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có đến vài ba triệu dân, hoặc đều là cấp xã, nhưng có xã chỉ có gần 150 người dân trong khi đó lại có xã có tới gần 50.000 người. Qua tổng hợp ý kiến của các đại biểu Quốc hội về vấn đề này cũng có ý kiến cho rằng, không thể quy định trong dự thảo Luật theo hướng lấy chính quyền nông thôn làm chuẩn để quy định về việc quản lý đô thị và cũng không thể lấy cấp xã làm chuẩn để quy định cho cấp phường... Do đó, đề nghị cần bổ sung quy định mô hình chính quyền đô thị và thêm một chương quy định về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...
- Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, trong dự thảo Luật đã được bổ sung một mục (mục 3 Chương II) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn giám sát của mỗi cấp Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, giám sát là chức năng quan trọng của Hội đồng nhân dân cần phải được quy định cụ thể ngay trong Luật để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân. Vì vậy, đề nghị trong dự thảo Luật cần quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, nội dung, trình tự, thủ tục, phương thức giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Đồng thời cũng cần quy định rõ hơn về đối tượng chịu sự giám sát. Có như vậy mới nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cũng như trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát trước Hội đồng nhân dân. Có loại ý kiến khác cho rằng, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân chỉ quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, do đó không thể quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám sát của Hội đồng nhân dân; vấn đề này cần quy định ở văn bản khác.
2. Về vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Theo Tờ trình của Chính phủ thì Điều 1 của Luật hiện hành quy định về vị trí, tính chất và vai trò của Hội đồng nhân và Điều 12 quy định về chức năng của Hội đồng nhân dân; còn Điều 2 của Luật hiện hành quy định vị trí, tính chất vai trò của Ủy ban nhân dân và Điều 41 của Luật quy định về chức năng của Ủy ban nhân dân. Nay dự thảo Luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng gộp nội dung của Điều 1 và Điều 11 của Luật hiện hành quy định nhằm làm rõ hơn vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; gộp Điều 2 và Điều 41 của Luật hiện hành nhằm làm rõ hơn vị trí, tính chất, vai trò và chức năng của Ủy ban nhân dân. Đó là:
- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các lĩnh vực được quy định tại Mục 1, Chương II của Luật này; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương (Điều 1).
- Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên
Ủy ban nhân dân chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế; văn hóa, xã hội; công nghệ môi trường; an ninh, quốc phòng và các chính sách khác trên địa bàn;
Ủy ban nhân dân chỉ đạo, điều hành hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương, đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở (Điều 2).
Tuy nhiên, về nội dung và cách thể hiện của 2 điều luật thì cũng có ý kiến cho rằng, cần quy định Hội đồng nhân dân là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa phương" và đề nghị cần cân nhắc quy định rõ Hội đồng nhân dân có 2 chức năng là "quyết định" các vấn đề quan trọng ở địa phương và "giám sát" việc thi hành pháp luật ở địa phương.
3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân
Trong dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Cụ thể là về nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân (Điều 10); nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của từng loại hình Hội đồng nhân dân: Tỉnh (Điều 11), thành phố trực thuộc trung ương (Điều 12), huyện (Điều 13); quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Điều 14), xã, thị trấn (Điều 15), phường (Điều 16. Các quy định này được xây dựng trên cơ sở lựa chọn, biên tập lại nội dung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp và các luật, pháp lệnh có liên quan nhằm thể hiện tinh thần phân cấp, có tính đến đặc thù của các đơn vị hành chính đô thị và nông thôn. Nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân được thể hiện theo hướng Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương, biện pháp về các lĩnh vực kinh tế - ngân sách, đất đai, văn hóa, giáo dục - y tế, an ninh - quốc phòng, tổ chức bộ máy, quản lý biên chế hành chính sự nghiệp... nhưng đây cũng chỉ là những nhiệm vụ chủ yếu, vì nhiều nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân đã được các luật, pháp lệnh chuyên ngành quy định cụ thể. Vì vậy, theo Tờ trình của Chính phủ thì trong Luật này không nhất thiết cần phải tập hợp đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Quan điểm này cũng đã được đa số các Bộ, ngành của Chính phủ tán thành và qua thảo luận, ý kiến của các đại biểu Quốc hội về cơ bản cũng đồng ý với việc bổ sung như trong dự thảo Luật.
Tuy nhiên, về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tại Chương II của dự thảo Luật còn có ý kiến khác nhau. Cụ thể như sau:
- Có ý kiến đề nghị cần thiết kế lại các điều, khoản cho phù hợp cả về mặt kỹ thuật văn bản cũng như nội dung phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp.
- Có ý kiến đề nghị dự thảo Luật chỉ nên quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, còn việc quy định chi tiết, cụ thể thì vẫn tiếp tục để Pháp lệnh quy định.
- Cũng có ý kiến đề nghị cần phải quy định cụ thể hơn nữa về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; bổ sung một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân mà trong thực tế Hội đồng nhân dân đã thực hiện như: công tác khen thưởng, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ đại biểu Hội đồng nhân dân; về quy trình miễn nhiệm, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân...
- Có ý kiến đề nghị cần quy định Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân cũng là đối tượng chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân; quy định rõ nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp; về việc phối hợp giám sát của Hội đồng nhân dân với các Đoàn đại biểu Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội tại địa phương...
- Ngoài ra, trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị các cơ quan hữu quan cần có đánh giá cụ thể và giải trình rõ nguyên nhân vì sao hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân còn hình thức (do tổ chức hay cơ chế hoạt động) để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật cho phù hợp.
4. Về Thường trực Hội đồng nhân dân
Luật hiện hành quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch. Ở cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch nhưng không gọi là Thường trực Hội đồng nhân dân. Đánh giá về cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân trong 2 nhiệm kỳ qua, ý kiến chung của các đại biểu Quốc hội cho rằng, với số lượng Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ có 2 người (Chủ tịch và Phó Chủ tịch) và chỉ có một người hoạt động chuyên trách nên Thường trực Hội đồng nhân dân gặp nhiều khó khăn trong hoạt động và giải quyết một số công việc giúp Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp. Vì vậy, dự thảo Luật trình Quốc hội lần này quy định cả 3 cấp Hội đồng nhân dân đều có Thường trực Hội đồng nhân dân và tăng số lượng thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân.
- Về số lượng và cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân
Trong quá trình thẩm tra cũng như Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến và thảo luận tại kỳ họp Quốc hội, ý kiến chung đều tán thành tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp. Riêng về cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân thì có những quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
+ Có ý kiến tán thành như quy định của dự thảo Luật (Điều 37): Thường trực Hội đồng nhân dân gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy Ủy viên.
+ Có ý kiến đề nghị nên quy định Thường trực Hội đồng nhân dân gồm Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch.
+ Có ý kiến không tán thành bổ sung chức danh ủy viên trong Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã và đề nghị quy định Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có Chủ tịch và Phó chủ tịch.
+ Ý kiến khác lại cho rằng, để thực hiện chủ trương cải cách hành chính, giảm biên chế, giảm chi phí ngân sách thì không nhất thiết phải bổ sung Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân ở các cấp mà nên quy định Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Trưởng các ban của Hội đồng nhân dân (hoạt động chuyên trách).
+ Cũng có ý kiến đề nghị chỉ nên tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh. Còn Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
- Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân, trong quá trình thảo luận còn có những quan điểm khác nhau như sau:
Khi thảo luận về vấn đề này còn có ý kiến khác nhau như sau:
+ Có ý kiến tán thành như quy định tại Điều 38 của dự thảo Luật về vị trí, vài trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân: Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp Hội đồng nhân dân; phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân; đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; điều hòa phối hợp hoạt động của các ban của Hội đồng nhân dân, giữ mối liên hệ với các đại biểu Hội đồng nhân dân; gửi chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân đến Hội đồng nhân dân; tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Ủy ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân phạm sai lầm theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp; báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân lên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp hoặc báo cáo lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ; giữ mối liên hệ và phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; thông báo hoạt động của Hội đồng nhân dân cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
+ Có ý kiến đề nghị cần quy định Thường trực Hội đồng nhân dân không chỉ đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân mà còn giám sát các hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương;
+ Ý kiến khác lại cho rằng, để bảo đảm cho Hội đồng nhân dân hoạt động thực sự có hiệu quả, tránh hình thức thì bên cạnh việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng cần phải xác định Thường trực Hội đồng nhân dân là một cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, hoạt động thường xuyên; thay mặt Hội đồng nhân dân giải quyết một số công việc được Hội đồng nhân dân giao; bảo đảm hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân. Đồng thời, cần tăng cường cả về tổ chức, chất lượng cán bộ và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này, quan tâm đúng mức đến điều kiện bảo đảm cho Thường trực Hội đồng nhân dân hoạt động;
+ Bên cạnh đó, lại có ý kiến cho rằng, dường như trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đang có vấn đề chưa rõ ràng về mặt quan điểm. Bởi vì, theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về tổ chức chính quyền địa phương thì Ủy ban nhân dân được tổ chức để thực hiện hai chức năng: Cơ quan chấp hành (cơ quan thường trực) của Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong khi đó từ nhiều năm nay, Thường trực Hội đồng nhân dân được tổ chức ra và được Luật năm 1989 xác định là cơ quan hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, Luật năm 1994 không xác định Thường trực Hội đồng nhân dân là một cơ quan nhưng lại giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân một số nhiệm vụ như một cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân. Đây là vấn đề cần được làm rõ và đã đến lúc cần phải giải quyết dứt khoát về sự bất hợp lý này. Vì vậy, có ý kiến đề nghị nếu vẫn tiếp tục duy trì Thường trực Hội đồng nhân dân thì phải xác định rõ vị trí, vai trò của Thường trực của Hội đồng nhân dân là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân với những chức năng, nhiệm vụ thích hợp; nếu cứ để tình trạng tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân như hiện nay thì cũng không nên tiếp tục duy trì Thường trực Hội đồng nhân dân với sự không rõ ràng về vị trí, vai trò của tổ chức này trong bộ máy chính quyền địa phương;
+ Cũng có ý kiến cho rằng, Hội đồng nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số. Vì vậy, mọi vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phải được giải quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân; quyền lực của Hội đồng nhân dân không thể tập trung vào một số người trong cơ quan thường trực, mà cơ quan này chỉ làm nhiệm vụ điều hòa phối hợp hoạt động như quy định của Luật hiện hành là phù hợp. Do đó, ý kiến này đề nghị không nên và không nhất thiết phải tăng cường về số lượng cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân.
5. Về các ban của Hội đồng nhân dân
Điều 39 của dự thảo Luật quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thành lập 3 ban: Ban kinh tế, Ban văn hóa- xã hội và Ban pháp chế; ở tỉnh nào có nhiều dân tộc thì thành lập Ban dân tộc; Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập 2 ban: Ban kinh tế - xã hội và Ban pháp chế (phương án 1); hoặc 3 ban: Ban kinh tế, Ban văn hóa- xã hội và Ban pháp chế (phương án 2).
a) Về số lượng cán ban của Hội đồng nhân dân
Trong quá trình thẩm tra, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến cũng như quá trình thảo luận tại kỳ họp Quốc hội, ý kiến chung của nhiều vị đại biểu Quốc hội tán thành quy định tổ chức các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như trong dự thảo Luật. Tuy nhiên, về các phương án cũng có những ý kiến khác nhau như sau:
- Có ý kiến đề nghị ở thành phố trực thuộc trung ương nên thành lập Ban đô thị vì chức năng quản lý đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là rất quan trọng;
- Khi thảo luận về các ban của Hội đồng nhân dân cấp huyện: nhiều ý kiến tán thành theo phương án 1 và cho rằng, việc thành lập các ban như Luật hiện hành là hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hoạt động của Hội đồng nhân dân và bảo đảm tinh gọn bộ máy. Ngược lại, một số ý kiến lại tán thành phương án 2 và cho rằng, kinh tế- xã hội là lĩnh vực rất rộng, bao gồm kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Do đó, nếu tổ chức như hiện nay thì công việc của Ban kinh tế- xã hội rất nặng nên không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao;
- Cũng có ý kiến đề nghị nên thành lập cả ban của Hội đồng nhân dân ở cấp xã và các ban ở cấp xã chỉ hoạt động kiêm nhiệm nên không tăng biên chế. Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã sẽ tạo điều kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã khi tham gia vào các hoạt động giám sát được thuận lợi hơn; các ban cũng tạo điều kiện để chuẩn bị các báo cáo thẩm tra của Hội đồng nhân dân để trình Hội đồng nhân dân tại kỳ họp có chất lượng, do đó chất lượng các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cũng sẽ tốt hơn, từ đó sẽ tăng hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân.
b) Về Trưởng ban hoặc Phó ban hoạt động chuyên trách
Theo quy định tại Điều 39 của dự thảo Luật thì Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoạt động chuyên trách; Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban Hội đồng nhân dân cấp huyện có thể hoạt động chuyên trách. Khi thảo luận về vấn đề này còn có ý kiến khác nhau như sau:
- Một số ý kiến tán thành như quy định trong dự thảo Luật;
- Nhiều ý kiến khác lại cho rằng, các ban của Hội đồng nhân dân có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Hội đồng nhân dân, có nhiệm vụ tham gia chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công, giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, giúp Hội đồng nhân dân giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như vậy, các ban của Hội đồng nhân dân cần phải được tổ chức cho phù hợp cả về nhân sự lẫn điều kiện, phương tiện hoạt động. Tuy nhiên, trên thực tế, ở nhiều địa phương, cả Trưởng ban, Phó Trưởng ban đều hoạt động kiêm nhiệm, không có cán bộ chuyên trách giúp việc. Với cơ cấu tổ chức như vậy đã hạn chế rất nhiều đến hiệu quả hoạt động của các ban. Do đó, ý kiến này đề nghị quy định Trưởng các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện phải hoạt động chuyên trách và quy định rõ hơn về cơ chế hoạt động và những điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân;
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị quy định Trưởng hoặc Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp huyện có thể hoạt động chuyên trách để bảo đảm việc chủ động bố trí cán bộ, nhất là với những đồng chí là thành viên các ban của Đảng.
Ngoài ra, có ý kiến đề nghị để bảo đảm tính thống nhất đối với các ban của Hội đồng nhân dân thì cần quy định số lượng thành viên của mỗi ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (hiện nay số lượng thành viên của mỗ ban cũng không thống nhất, đa số các ban có từ 5-7 thành viên, nhưng cũng có nơi ban có tới 15 thành viên).
6. Về Văn phòng giúp việc Hội đồng nhân dân
Văn phòng giúp việc Hội đồng nhân dân là vấn đề được thảo luận trong nhiều năm mà chưa đi đến thống nhất. Trên thực tế mô hình Văn phòng Hội đồng nhân dân được tổ chức rất khác nhau. Có tỉnh tổ chức riêng Văn phòng Hội đồng nhân dân; có tỉnh thì tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; có tỉnh thì tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội nên cũng đã gây nhiều băn khoăn cho các địa phương và sự tranh cãi qua các cuộc hội nghị khi bàn về vấn đề này.
Điều 41 của dự thảo Luật quy định: "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có cơ quan giúp việc là Văn phòng Hội đồng nhân dân". Trong Tờ trình trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến về dự án Luật này tại phiên họp tháng 3/2003, Chính phủ đã trình 2 phương án về thành lập Văn phòng Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh:
- Phương án 1: Thành lập Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
- Phương án 2: Thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Qua quá trình thẩm tra, thảo luận cho ý kiến, nhiều đại biểu đề nghị trong lần sửa đổi này cần quy định ngay trong Luật về Văn phòng giúp việc Hội đồng nhân dân để thống nhất áp dụng trong toàn quốc, không nên tiếp tục để tình trạng tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân như hiện nay. Bởi vì việc ổn định tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân sẽ góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan hữu quan, trong dự thảo Luật trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ ba đã quy định rõ Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có Văn phòng giúp việc. Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đồng tình với quy định này. Tuy nhiên, về mô hình cụ thể thì vẫn còn có những ý kiến khác nhau:
- Nhiều ý kiến đề nghị Hội đồng nhân ở cấp tỉnh có Văn phòng riêng;
- Một số ý kiến đề nghị nên tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội ở cấp tỉnh;
- Có ý kiến đề nghị tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
Các ý kiến về từng loại mô hình cụ thể như sau:
- Ý kiến tán thành tổ chức mô hình Văn phòng giúp việc Hội đồng nhân dân riêng cho rằng, việc tổ chức Văn phòng giúp việc riêng sẽ tạo điều kiện thuận lợi và chủ động trong hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Đồng thời, việc quy định này sẽ bảo đảm về mặt pháp lý, tránh việc Văn phòng vừa phải tham mưu cho cơ quan quyền lực, vừa phải tham mưu cho cơ quan chấp hành (vừa tham mưu cho cơ quan trình báo cáo, đề án, vừa tham mưu cho việc chuẩn bị báo áo thẩm tra về các báo cáo, đề án này). Nếu tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội ở cấp tỉnh sẽ có lợi là tiết kiệm được bộ máy, ngân sách nhưng trên thực tế sẽ có những bất hợp lý là trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân lại quy định về tổ chức Văn phòng Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội mà Đoàn đại biểu Quốc hội lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương hiện nay đã có đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, có bộ máy giúp việc và Văn phòng phục vụ có đầy đủ tư cách pháp nhân, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội đã được quy định rõ trong Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Mặt khác, về kinh phí, phương tiện làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội hiện nay cũng không còn phụ thuộc nhiều vào các địa phương như trước đây;
- Ý kiến tán thành tổ chức mô hình văn phòng chung Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thì cho rằng, cần nghiêm túc thực hiện chủ trương cải cách hành chính, tiết kiệm ngân sách, nhân lực. Trên thực tế, những vướng mắc hiện nay không phải ở chỗ có văn phòng độc lập hay không độc lập mà cần quan tâm đến đội ngũ cán bộ giúp việc, nhất là đội ngũ cán bộ phục vụ về chuyên môn cho Thường trực Hội đồng nhân dân. Vì vậy, cần quan tâm hơn đến vấn đề này.
7. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành quy định chung về nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp. Nay để thực hiện chủ trương phân cấp, có tính đến đặc thù của đơn vị hành chính đô thị và nông thôn, trên cơ sở các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ủy ban nhân dân các cấp trong Pháp lệnh nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và các văn bản luật, pháp lệnh hiện hành khác, dự thảo Luật đã được bổ sung các quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, tập trung vào các lĩnh vực cụ thể như: kinh tế; nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi, đất đai; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; giao thông vận tải; xây dựng, quản lý, phát triển đô thị; thương mại, dịch vụ, du lịch; giáo dục, đào tạo; văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; xã hội, đời sống; khoa học, công nghệ, môi trường; an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; thi hành pháp luật; xây dựng chính quyền địa phương, quản lý nhà nước, quản lý địa giới đơn vị hành chính; kế hoạch ngân sách tài chính.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ủy ban nhân dân như trong dự thảo Luật vẫn còn chung chung, chưa phân định rõ được trách nhiệm của Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, chưa thể hiện rõ được chủ trương phân cấp mạnh cho địa phương và cũng chưa làm rõ được tính chất đặc thù của các đơn vị hành chính đô thị so với nông thôn.
8. Về việc bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Theo quy định tại Điều 51 của dự thảo Luật trình Quốc hội thì:
“Trường hợp khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong nhiệm kỳ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu.
Người được bầu vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.”
Đây là quy định mới so với Luật hiện hành. Qua thực tiễn tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cho thấy, do rất nhiều lý do khác nhau như ốm đau, chết... hoặc do thực hiện việc luân chuyển cán bộ mà dẫn đến việc khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Vì vậy, cần phải bổ sung quy định trong trường hợp khuyết chức danh này thì Hội đồng nhân dân phải tiến hành bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân mới, ở đây có hai vấn đề đặt ra, đó là:
a) Về việc người được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân mới trong trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân có nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân hay không?
- Theo quy định của Luật hiện hành thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Cho nên khi khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì bắt buộc Hội đồng nhân dân phải bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân mới trong số những đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, trong trường hợp người ứng cử vào chức vụ này không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân thì trước hết phải tổ chức bầu cử để người đó trở thành đại biểu Hội đồng nhân dân, sau đó Hội đồng nhân dân mới tiến hành bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân mới. Điều này gây nhiều tốn kém và nhiều khi không bảo đảm tính kịp thời trong công tác cán bộ, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân. Vì vậy, dự thảo Luật dự kiến quy định trong trường hợp này thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Có ý kiến đồng tình với dự thảo Luật là khi khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân trong nhiệm kỳ, thì người được giới thiệu bầu vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Nhưng người giữ chức vụ này từ đầu nhiệm kỳ nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Ý kiến khác cho rằng, trong bất kỳ trường hợp nào thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân dân cũng phải là đại biểu Hội đồng nhân dân, vì công tác cán bộ đã có quy hoạch trước và trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân đã được dự liệu. Mặt khác, theo quy định tại Điều 123 Hiến pháp năm 1992 thì “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân...”, Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người đứng đầu Ủy ban nhân dân - cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, không thể vì lý do gì mà người đứng đầu cơ quan này lại không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.
b) Về việc quy định người nào có quyền giới thiệu người ứng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu trong trường hợp khuyết chức danh này?
Theo quy định của Luật hiện hành, việc bầu người giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân do chủ tịch Hội đồng nhân dân giới thiệu và đại biểu Hội đồng nhân dân cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào chức vụ này. Trong dự thảo Luật trình Quốc hội dự kiến quy định trong trường hợp khuyết chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp sẽ giới thiệu người ứng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu.
- Có ý kiến tán thành với quy định của dự thảo Luật là Chủ tịch Hội đồng nhân dân giới thiệu người ứng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu.
- Ý kiến khác lại cho rằng, không nên quy định Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu. Ý kiến này cho rằng nên quy định để người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên giới thiệu người ứng cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới để Hội đồng nhân dân bầu. Quy định như vậy sẽ bảo đảm thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ, phù hợp với các quy định của của Luật tổ chức Chính phủ về thẩm quyền điều động người giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
9. Về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
Theo quy định tại Điều 58 của dự thảo Luật thì "Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp việc Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực công tác theo sự ủy quyền hoặc phân cấp của Ủy ban nhân dân cùng cấp; bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở”.
So với Luật hiện hành thì trong dự thảo Luật trình Quốc hội đã xác định rõ hơn tính chất của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân là “cơ quan tham mưu, giúp việc” và cũng xác định rõ việc “thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực công tác theo sự ủy quyền hoặc phân cấp của Ủy ban nhân dân”. Tuy nhiên, qua thảo luận về vấn đề này hiện còn có ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, không nên và không thể đặt vấn đề ủy quyền hoặc phân cấp cho các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực công tác, coi Ủy ban nhân dân như là “Chính phủ” ở địa phương, còn cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân như là “Bộ, cơ quan ngang Bộ”. Việc ủy quyền này sẽ dẫn tới sự lẫn lộn và trùng lặp trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân. Khi các cơ quan chuyên môn này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được ủy quyền mà ra các quyết định sai trái làm oan cho người dân hoặc gây thiệt hại thì khó có thể xác định được Ủy ban nhân dân hay cơ quan chuyên môn là người có trách nhiệm bồi thường. Mặt khác, cũng không nên quy định các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân là cơ quan tham mưu, giúp việc bởi vì trong thực tế các cơ quan này có thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành ở địa phương, nếu xác định là cơ quan tham mưu, giúp việc thì không có cơ quan tham mưu, giúp việc lại thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Vì vậy, ý kiến này đề nghị nên giữ nguyên quy định về cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân như Luật hiện hành là “Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương...”.
- Ý kiến khác cho rằng, qua thực tiễn hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cho thấy các cơ quan này có hai nhiệm vụ chính đó là tham mưu cho Ủy ban nhân dân và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực công tác theo sự phân cấp hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân thì trước hết cần phải xác định rõ tính chất của nó. Chính vì vậy, trong dự thảo Luật đã quy định rõ về nhiệm vụ này của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân .
10. Về thẩm quyền quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
Theo quy định tại khoản 14 Điều 43 của dự thảo Luật thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền “quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”.
Đây là quy định mới của dự thảo Luật so với Luật hiện hành. Qua thực tiễn hoạt động của Ủy ban nhân dân cho thấy, Ủy ban nhân dân nắm rõ được nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân và trực tiếp chỉ đạo đối với hoạt động của các cơ quan này. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, trực tiếp tham mưu và giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Cho nên cần thiết phải giao cho Ủy ban nhân dân thẩm quyền quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu tổ chức của cơ quan này. Tuy nhiên, về vấn đề này vẫn còn có hai loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất không tán thành với quy định như trong dự thảo Luật vì cho rằng quy định như vậy là mâu thuẫn với quy định của Luật tổ chức Chính phủ. Tại khoản 3 Điều 16 của Luật tổ chức Chính phủ quy định Chính phủ có thẩm quyền “quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương". Mặt khác, tại khoản 7 Điều 11 của dự thảo Luật quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Ý kiến này cho rằng nên giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoặc giao Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân để tránh sự chồng chéo, không rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất của các cơ quan này trong toàn quốc.
- Loại ý kiến thứ hai tán thành với quy định như trong dự thảo Luật là giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thẩm quyền quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu, tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình. Ý kiến này cho rằng, quy định như vậy không trái với quy định của Luật tổ chức Chính phủ, bởi vì theo quy định của dự thảo Luật thì Ủy ban nhân dân chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu, tổ chức của từng cơ quan chuyên môn của mình; còn Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn tức là hệ thống các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cũng phê duyệt cơ cấu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp mình chứ không phải là cơ cấu cụ thể của từng cơ quan chuyên môn đó.
11. Về vấn đề phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc bổ nhiệm các chức danh thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
Về vấn đề phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc bổ nhiệm các chức danh thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, hiện vẫn đang còn hai loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, tính chất và nhiệm vụ của người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân khác với người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ ở chỗ, các Bộ trưởng là thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ và trước Quốc hội về công việc của mình còn người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân đa số không phải là thành viên Ủy ban nhân dân, không chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân mà chỉ chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân. Mặt khác, Hội đồng nhân dân mỗi năm chỉ họp 2 kỳ cho nên việc giao cho Hội đồng nhân dân phê chuẩn đối với các chức danh này sẽ phải chờ đợi lâu, gây khó khăn cho việc thực hiện công tác luân chuyển cán bộ. Vì vậy, các ý kiến này cho rằng không nên quy định việc Hội đồng nhân dân phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc bổ nhiệm các chức danh thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng cần quy định Hội đồng nhân dân phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc bổ nhiệm các chức danh thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp. Việc phê chuẩn này, sẽ nâng cao vị thế cũng như vai trò của Hội đồng nhân dân đối với tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan này. Nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân và cử tri. Do đó, theo loại ý kiến này cần phải quy định cụ thể Hội đồng nhân dân phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc bổ nhiệm các chức danh thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
12. Về vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm
Về vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm, hiện đang còn 2 loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, không nên đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm. Bởi vì, không nên đồng nhất hoặc mô phỏng mô hình tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương. Nếu quy định như vậy, công tác cán bộ sẽ có nhiều tầng, nấc phụ trách, việc bổ nhiệm không kịp thời. Mặt khác, đối với một số chức danh chuyên môn của Ủy ban nhân dân là do ngành dọc bổ nhiệm, trong trường hợp Hội đồng nhân dân bỏ phiếu không tín nhiệm nhưng ngành dọc lại không chấp nhận thì chưa rõ sẽ giải quyết như thế nào.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần quy định việc Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm. Quy định này một mặt phát huy dân chủ, nâng cao vị thế cũng như vai trò của Hội đồng nhân dân đối với tổ chức bộ máy thuộc Ủy ban nhân dân, mặt khác, nâng cao trách nhiệm không chỉ của Ủy ban nhân dân mà còn của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện được như vậy thì công tác cán bộ mới chuẩn xác và có hiệu quả.
13. Về cơ chế đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm
Trong dự thảo Luật trình Quốc hội dự kiến quy định Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm theo đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hoặc theo đề nghị của 2/3 tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân. Về vấn đề này có một số ý kiến như sau:
- Có ý kiến tán thành với quy định này trong dự thảo Luật, vì cho rằng ở địa phương cần thiết phải đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng và củng cố chính quyền địa phương.
- Ý kiến khác lại không tán thành và cho rằng quy định như vậy là trái nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, chỉ cơ quan bầu ra hoặc trực tiếp giám sát mới có quyền đề nghị việc bỏ phiếu tín nhiệm mà cụ thể là Thường trực Hội đồng nhân dân và các