Chứng hysteria tập thể (mass hysteria), ngày nay được biết đến với tên gọi rối loạn phân ly, là thuật ngữ dùng để mô tả trường hợp một số đông người cùng biểu hiện các triệu chứng cuồng loạn về thể chất và tâm thần. Các triệu chứng nhanh chóng lan rộng khắp cộng đồng, trong một số trường hợp tràn sang những thành phố khác hoặc xảy ra trên cả nước.
Nạn nhân của chứng hysteria thường trải qua trận cười điên dại không kiểm soát, cơ thể uể oải mệt lả, ngất xỉu, choáng váng, nhược cơ hoặc những triệu chứng khác không xuất phát từ bất kỳ nguyên nhân thể chất nào.
Thuật ngữ "hysteria" bắt nguồn từ "hystera" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là dạ con hay tử cung. Trước đó, mối liên quan giữa chứng cuồng loạn này với tử cung từng xuất hiện trong một cổ thư y học Ai Cập năm 1900 trước Công nguyên. Trong đó, cổ thư xác định nguyên nhân của rối loạn phân ly hysteria là do sự di chuyển tự phát của tử cung tới nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể người phụ nữ.
Đến thời Trung Cổ, quan điểm này được thay thế bằng niềm tin dị đoan cho rằng, người bệnh bị phù thủy bỏ bùa, quỷ đoạt hồn hoặc do loạn trí. Mặc dù các ca hysteria tập thể vẫn khiến giới y học lúng túng tìm lời giải thỏa đáng, ngày nay hầu hết mọi người tin rằng hiện tượng này có liên quan tới stress tâm lý hoặc cảm xúc thể nặng.
Y văn thế giới đã ghi lại nhiều ca hysteria tập thể trong nhiều thế kỷ, giúp loài người có cái nhìn sâu hơn về bản chất phức tạp của tâm lý con người.
"Vũ điệu tử thần" thời Trung Cổ
Nhảy múa cuồng loạn, được biết đến với nhiều tên gọi như Dịch nhảy múa đến chết, Điệu nhảy của Thánh John, Điệu nhảy của Thánh Vitus, bắt đầu ở châu Âu lục địa từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 17.
Một trong những trường hợp nổi tiếng nhất xảy ra ở thị trấn Aachen, Đức, vào ngày 24/6/1374. Lúc đó, đám đông nhảy nhót cuồng loạn qua các đường phố hàng giờ, thậm chí hàng ngày cho tới hàng tháng, đến khi họ đổ gục vì kiệt sức hoặc tử vong do lên cơn đau tim và đột quỵ. Số người đổ ra đường nhảy múa không kìm chế trong mỗi đợt dịch khi đó có thể lên tới hàng nghìn.
Dịch nhảy múa tới chết bùng phát nhiều lần suốt thời Trung Cổ ở châu Âu, với các trường hợp được ghi nhận ở Italy, Luxembourg, Pháp, Đức, Hà Lan và Thụy Sỹ. Ban đầu, hành động loạn trí này được cho là cho hậu quả lời nguyền của vị thánh John dòng Baptist hoặc Thánh Vitus, dẫn tới những tên gọi khác nhau của bệnh dịch.
Do đó, nạn nhân của "lời nguyền" thường lui tới những nơi thờ phụng các vị thánh để được giải thoát khỏi đau đớn, một "phương thuốc" tỏ ra hiệu quả giúp nhiều người hồi phục sức khỏe.
Những nữ tu Pháp kêu tiếng mèo
Trường học, nhà tù hoặc các cơ sở đông đúc được quản lý chặt thường là nơi khởi phát những vụ dịch hysteria tập thể, các tu viện cũng không phải ngoại lệ.
Trong cuốn sách "Các đại dịch thời Trung Cổ" của J.F.C. Hecker xuất bản năm 1844 có báo cáo về một nữ tu trong tu viện Cơ đốc ở Pháp bắt đầu phát ra tiếng kêu như mèo. Không lâu sau, các nữ tu khác cũng hành động tương tự, cho tới khi tiếng kêu bắt đầu lan ra khắp tu viện.
Điều này làm dấy lên nỗi lo ngại trong cộng đồng theo đạo trong khu vực. Cuối cùng, binh sĩ được cử đến để kiểm soát tình hình. Các nữ tu bị binh lính quất bằng roi da, bị đánh cho tới khi họ hứa sẽ chấm dứt phát ra âm thanh chói tai đáng sợ đó. Trong thời kỳ này, niềm tin vào việc bị quỷ ám rất phổ biến trong người dân, và ở Pháp, mèo thường bị coi là loài vật trung thành với quỷ dữ.
Dịch cười
Những trận cười mất kiểm soát bắt đầu vào ngày 30/1/1962 tại một trường nữ sinh truyền đạo ở Kasshasha, Tanzania. Tràng cười khởi nguồn từ ba nữ sinh nhưng sau đó nhanh chóng lan ra toàn trường, kéo dài dai dẳng hàng giờ, hàng ngày và sau đó là hàng tuần, khiến trường học phải đóng cửa ngày 18/3/1962.
Tuy nhiên, dịch vẫn chưa kết thúc tại đây. Sau khi trường học này bị đóng của, chứng cuồng loạn hysteria tập thể kéo sang những trường khác và cuối cùng là các khu làng lân cận. Hàng nghìn trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch, 14 trường học buộc phải ngưng hoạt động. 18 tháng sau khi xuất hiện, dịch cười điên dại mới dần lắng xuống.
Những phiên tòa phù thủy Salem
Một trong những trường hợp hysteria tập thể ám ảnh nhất trong lịch sử xảy ra ở Salem, bang Massachusetts, Mỹ, năm 1692. Hàng chục cô gái trẻ không bệnh tật bỗng dưng ngất xỉu hàng loạt, la hét, co giật, méo mó mặt không kiểm soát.
Người dân đổ tội cho trò yểm bùa của phù thủy trong vùng. Theo sau đó là làn sóng tố cáo và xử tội những người bị cho là dính dáng tới tà thuật, được biết đến với tên gọi "Những phiên tòa xử phù thủy ở Salem". 25 người ở Salem và các thị trấn lân cận đã chết sau các phiên tòa này.
"Phiên tòa phù thủy Salem" thường được nhắc tới trong các tác phẩm về chính trị và văn chương để nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa biệt lập, tín ngưỡng cực đoan, những cáo buộc sai lầm và sự thất bại trong quá trình thực thi pháp luật công bằng.
Lời giải thích hiện đại
Những ví dụ về sự phổ biến của chứng hysteria tập thể điên loạn trong lịch sử có thể khá lạ lùng với những cộng đồng được hưởng nền giáo dục cao ngày nay, nơi không còn niềm tin vào những lý giải như sự di chuyển của tử cung, quỷ ám hay tà thuật phù thủy.
Dù vậy, các vụ hysteria tập thể vẫn tiếp tục diễn ra. Gần đây nhất là vào năm 2012 khi 1.900 trẻ em ở khắp 15 trường học tại Sri Lanka phải điều trị một loạt triệu chứng như phát ban trên da, chóng mặt và ho mà không xuất phát từ nguyên nhân bệnh lý nào.
Bệnh nhân hysteria có những biểu hiện điên rồ và kỳ quặc khiến nhiều người cảm thấy buồn cười và chế nhạo. Song nghiên cứu cho thấy, nhiều nhân tố phức tạp góp phần vào sự hình thành và lan truyền của các chứng cuồng loạn mang tính dây chuyền, bao gồm những lo lắng về xã hội, áp lực văn hóa, tin đồn, sự sợ hãi, phấn khích bất thường, niềm tin tôn giáo, hoặc do căng thẳng quá mức.
Trong khi các yếu tố xã hội, chính trị, tôn giáo biến đổi qua nhiều thế kỷ, đặc điểm tâm lý con người hầu như vẫn giữ nguyên. Vì thế, rất có thể trong tương lai, con người sẽ chứng kiến thêm nhiều trường hợp hysteria tập thể kỳ quặc như các vụ việc từng ghi nhận trong quá khứ.
Thu Hiền (theo Ancient Origins)