1. Nhựa cóc (thiềm tô):
Nhựa tập trung ở 2 túi chứa tại các bướu phía sau tai. Lấy nhựa bằng cách rửa sạch vùng da, lau khô, kích thích tuyến sau tai cho tiết nhựa ra, hứng vào vật chứa bằng sành, sứ hoặc thủy tinh (nếu dùng vật chứa bằng sắt hoặc kim loại thì nhựa biến màu thành đen). Nhựa mới lấy có màu trắng đục, sau quánh dần rồi ngả màu nâu, vị đắng, có thể gây nôn, nếu văng vào mắt sẽ có cảm giác cay, tê. Thiềm tô có tính độc (độc bảng A, gồm bufogenin, bufotalin, bufotoxin, gammabufotoxin, vulgarobufotoxin).
Theo y học cổ truyền, nhựa cóc có tác dụng tiêu thũng, giải độc, giảm đau, chống tích trệ, làm mạnh tim. Dân gian dùng nhựa cóc trị mụn nhọt, lợi răng sưng đau... Một bài thuốc Đông y kinh điển là Lục thần hoàn, có tác dụng trị cảm sốt nặng, mê man, kinh giản, suy tim; thành phần dược liệu bao gồm xạ hương, trân châu, băng phiến, nhựa cóc và ngưu hoàng.
Khá nhiều đơn thuốc Đông y mà thành phần có nhựa cóc, hầu hết đều xuất phát từ kinh nghiệm gia truyền. Các tác dụng điều trị bao gồm trẻ em cam tích, bụng ỏng, đít teo, hao gầy, chậm lớn (các triệu chứng của suy dinh dưỡng trẻ em). Tuy vậy, trong thành phần bài thuốc, hàm lượng cóc chỉ chiếm một lượng nhỏ bên cạnh nhiều vị thuốc có tác dụng kiện tỳ, tiêu thực (theo Đông y) như mạch nha, sơn tra, thần khúc, hạt sen, hoài sơn...
Triệu chứng nhiễm độc nhựa cóc:
- Nôn, buồn nôn liên tục, đau bụng, tiêu chảy mất nước.
- Tức ngực, hồi hộp, tim đập chậm, nhịp tim không đều, tay chân lạnh, hạ huyết áp, choáng.
- Đau đầu, tê môi, buồn ngủ, ra mồ hôi, giảm hoặc mất phản xạ gối, có thể co giật...
Tại Trung Quốc, đã có nhiều nghiên cứu theo hướng y học hiện đại về nhựa cóc. Theo Tạp chí Trung y 1985, có thể điều trị các loại ung thư gan, vú, bạch cầu, bệnh lao, tim mạch (như ngoại tâm thu, cơn đau thắt ngực) bằng dung dịch Hoa Thiềm tố (chất chiết xuất từ nhựa cóc) theo đường tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch.
Loại thuốc trên có tác dụng cường tim giống Digitalis nhưng không tích lũy, làm tăng huyết áp và hưng phấn trung khu hô hấp. Thuốc cũng có tác dụng giảm đau, nâng cao ngưỡng đau của cơ thể; gây tê cục bộ; kháng viêm, ức chế sự phát triển của nhiều loại tế bào ung thư và nhiều loại vi khuẩn (như trực khuẩn mủ xanh, liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn). Hoa Thiềm Tố còn có tác dụng tăng bạch cầu, chống tác dụng của tia phóng xạ, chống ung thư invitro, tăng miễn dịch thể dịch và chống dị ứng trên chuột nhắt.
2. Thịt cóc (thiềm nhục)
Từ lâu, Đông y đã dùng thịt cóc để làm thuốc, chủ yếu trị suy dinh dưỡng trẻ em, hao gầy, chậm lớn... Khá nhiều bài thuốc có thịt cóc như Viên cam cóc, Bột dinh dưỡng 0106, Thuốc cam Hàng Bạc, Bột cóc Baby... Một bài thuốc điển hình là Viên cam cóc, gồm bột thịt cóc 100 g, bột chuối tây 150 g, bột lòng đỏ trứng gà 20 g, tất cả trộn đều làm thành viên 4 g, mỗi ngày uống 4 viên (chia 2 lần) với nước nóng.
Thịt cóc là nguồn bổ sung chất đạm rất tốt ở thôn quê, nhưng hiện chưa giải thích được tác dụng chống suy dinh dưỡng, vì so về thành phần dinh dưỡng, thịt cóc thua xa một số động vật khác như thịt ếch, chuột đồng, chim sẻ... Bản thân thịt cóc không độc, nhưng trong quá trình chế biến, người làm thịt cóc có thể bất cẩn để nhiễm chất độc bufotoxin có trong da, gan và trứng. Do đó, khi làm thịt cóc, nên chặt bỏ đầu ở vị trí phía dưới 2 u tuyến nhựa sau tai, bỏ bàn chân và toàn bộ phủ tạng cóc. Chú ý không để nhựa cóc văng vào mắt..
BS Lê Quyên, Sức Khỏe & Đời Sống