![]() |
Sau chuyện khó lý giải về khả năng kết hợp ngẫu nhiên các vật chất vô cơ để thành vật chất sống và cấu trúc ADN, chuyện đau đầu thứ ba cho các nhà tiến hóa luận là sự thiếu vắng các hóa thạch sinh vật. Các nhà tiến hóa luận cho rằng nhìn vào sưu tập các mẫu hóa thạch, ta có thể hình dung ra con đường tiến hóa của sinh giới, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Căn cứ vào những đặc trưng cấu trúc tương tự, họ có thể phân loại các sinh vật hóa thạch thành từng nhóm khác nhau, gọi là loài, và xếp từng loài vào vị trí thích hợp trong cây tiến hóa. Vấn đề đặt ra là: theo luật tiến hóa giữa các loài phải có rất nhiều dạng hình trung gian từng tồn tại, và vì thế phải có hóa thạch của chúng. Ngay Darwin, trong cuốn Nguồn gốc các loài cũng phải thừa nhận điểm yếu nhất này trong học thuyết của ông. Ông viết trong phần mở đầu của chương 10: "... Số lượng các dạng trung gian giữa các loài, là các dạng đã tồn tại một cách chính thức, sẽ là rất lớn. Nhưng tại sao không có một kiến tạo hoặc một giải tầng địa chất nào chứa đầy đủ các gạch nối trung gian này? Rõ ràng là ngành địa lý đã không tìm ra được bất cứ một chuỗi hữu cơ biến đổi từ từ nào, và đó có lẽ là một khách quan hiển nhiên và nghiêm trọng nhất chống lại lý thuyết này". Nhưng ông cũng hy vọng "lời giải thích có lẽ nằm trong sự thiếu hoàn hảo thái quá trong dữ liệu địa lý". Tất nhiên ông tin là khoa học địa lý thời sau có thể lấp lỗ hổng về sự hiện hữu của các dạng sống trung gian giữa các loài. Oái oăm thay, gần 150 năm qua, hàng nghìn các nhà cổ sinh học khắp thế giới ra công đào bới, tìm kiếm các mẫu hóa thạch này để mong lấp đầy khoảng trống đó, nhưng nó vẫn nguyên vẹn như thời Darwin còn sống. David Kitts, từng thừa nhận trên tạp chí Tiến hóa: "Mặc dù với sự hứa hẹn sáng sủa rằng Cổ sinh học sẽ đem đến cho chúng ta một phương tiện để có thể nhìn thấy sự tiến hóa, nhưng ngược lại nó đã đem đến cho các nhà tiến hóa luận những khó khăn bề bộn hơn, bởi vì nó (ngành Cổ sinh học) càng làm hiện rõ hơn "khoảng trống giữa các loài". Thuyết tiến hóa cần những hóa thạch sinh vật trung gian, nhưng Cổ sinh học lại không thể cung cấp được". Càng tìm kiếm, càng thấy nhiều hóa thạch các loài chứ không hề thấy hóa thạch các sinh vật trung gian! Vậy có quá trình tiến hóa không, để từ một loài này một (hoặc vài) loài mới xuất hiện? Một điểm vênh khác giữa lý thuyết tiến hóa và các bằng chứng ủng hộ nó là tính không chắc chắn của phương pháp định tuổi bằng Carbon-14. Trong tự nhiên, carbon phóng xạ được hình thành bởi sự va đập của tia vũ trụ vào nguyên tử nitơ. Tỷ lệ giữa carbon thông thường và carbon phóng xạ là 1 nghìn tỷ trên 1. Thực vật hấp thu carbon phóng xạ từ không khí, đất, nước, rồi đến lượt động vật ăn thực vật, cho nên trong cơ thể sinh vật tồn tại một lượng carbon phóng xạ, có tỷ lệ tương đương trong tự nhiên. Khi sinh vật chết đi, quá trình tan rã (để biến lại thành nitơ) của carbon phóng xạ bắt đầu. Bằng các phương pháp khác nhau nếu xác định được lượng carbon phóng xạ trong một mẫu hóa thạch, ta có thể suy ra tuổi của hóa thạch đó (hàm lượng tỷ lệ nghịch với tuổi hóa thạch, nghĩa là thời điểm chết của sinh vật càng xa hiện tại, lượng carbon phóng xạ còn lại càng ít). Tuy nhiên, tại hội thảo quốc tế của những người theo phái sáng tạo lần 5, tổ chức tại Pittsburgh, PA, Mỹ năm 2003, tiến sĩ Baumgardner đã trình bày một báo cáo thú vị về C14. Khi tập hợp, phân tích kết quả hơn 20 năm nghiên cứu về carbon phóng xạ bằng máy đo quang phổ gia tốc có độ nhạy cao của nhiều phòng thí nghiệm ở nhiều nước khác nhau, ông nhận thấy các mẫu hữu cơ đại diện cho tất cả các thời kỳ của kỷ Phanerozoic (khoảng 500 triệu năm trở lại đây) đều chứa một lượng carbon phóng xạ có thể định lượng được và tập trung vào khoảng từ 0,1 đến 0,5 pmc (phần trăm carbon hiện đại). Ông kết luận ngay: các mẫu hóa thạch này không thể có tuổi lớn hơn 250.000 năm. Đó là bởi trong 1 gam mẫu hóa thạch, từ chỗ có 6x1010 nguyên tử C14, thì sau 250.000 năm, chỉ còn một phần vạn nguyên tử. Hàm lượng này không thể xác định được bằng kỹ thuật hiện có. Vậy khi còn đo được C14, tức là tuổi của mẫu vật phải nhỏ hơn 250.000 năm, không thể nào có cả triệu năm tuổi như cách tính của học thuyết tiến hóa. Giả thuyết nào có thể giải thích được vấn đề carbon phóng xạ này. Tiến sĩ Baumgadner dựa vào nghiên cứu của chính ông kết luận rằng một trận đại hồng thủy đã gần như xóa sạch mọi thứ trước đó trên mặt đất. Những gì ta thấy qua các mẫu hóa thạch ngày nay phần lớn đều xuất hiện sau trận đại hồng thủy ấy. Nếu có bằng chứng khoa học xác đáng về một trận đại hồng thủy, vậy không thể không tin những gì đã được ghi trong Kinh thánh. (còn nữa) (Theo Tia sáng, Nguyễn Tiến Vởn) |