Trong lịch sử Việt Nam, nhiều ông vua lên ngôi vào "mùa xuân, tháng giêng", nhưng sách sử không ghi chính xác ngày nào. Chỉ một số được ghi chép rõ ràng ngày lên ngôi vào mùng 1 Tết.
Vua Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh)
Mạc Đăng Doanh là hoàng đế thứ hai của nhà Mạc, quê ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ngày nay. Ông là con trưởng của Mạc Thái Tổ Đăng Dung. Năm 1527, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, ông lập con trưởng Mạc Đăng Doanh làm thái tử. Ngày Tết nguyên đán năm 1530, Mạc Thái Tổ truyền ngôi cho con và lên làm Thái thượng hoàng.
Về việc này, sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn viết: "Năm Canh Dần (1530), tháng giêng, ngày Đinh Hợi, mồng 1, Đăng Doanh tiếm hiệu Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Đại Chính năm thứ nhất".
Là người "tính tình khoan hậu, giản dị, giữ pháp độ, cấm hà khắc tàn bạo", Mạc Đăng Doanh đã tạo nên thời kỳ hoàng kim, thịnh trị của nhà Mạc. Các sử thần triều Lê - Trịnh, sử gia Lê Quý Đôn mô tả "mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn trấn đều yên ổn", hay "trúng mùa luôn, thóc rẻ gạo hơn, thuế nhẹ dịch ít, ai nấy đủ thư thái, lại thêm tư pháp nghiêm minh, quan lại thanh cần, trộm cắp mất tăm, đêm không nghe tiếng chó cắn, đi đường không ai thèm nhặt của rơi".
Mạc Thái Tông Đăng Doanh ở ngôi được tròn 10 năm thì qua đời (năm 1540). Mạc Đăng Dung đã chọn cháu nội (con trưởng của Đăng Doanh) là Mạc Phúc Hải (Mạc Hiến Tông) lên thay.
Vua Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm)
Lê Thế Tông, tên húy là Lê Duy Đàm, sinh năm 1567, là vua thứ tư của nhà Lê trung hưng. Ông là con thứ năm của vua Lê Anh Tông. Theo chính sử, cuối tháng 11/1572, thấy Trịnh Tùng chuyên quyền, lo sợ trước cảnh chém giết, tranh giành giữa các phe cánh trong triều, vua Lê Anh Tông dẫn bốn hoàng tử bí mật bỏ ra Nghệ An tránh loạn.
Đúng ngày đầu năm Quý Dậu (1573), Trịnh Tùng cho người đến đón con thứ năm của Anh Tông là Lê Duy Đàm về lập làm vua. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Tả tướng Trịnh Tùng và các quan văn võ cùng tôn hoàng tử lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ".
Vua Lê Thế Tông cai trị trong thời kỳ Trịnh Tùng chiếm được kinh thành từ tay nhà Mạc. Quyền lực thực sự rơi vào tay Trịnh Tùng, vua Lê không còn thực quyền. Đến ngày 24/8/1599 âm lịch vua Lê Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi.
Vua Minh Mạng (Nguyễn Phúc Đảm)
Vua Minh Mạng (1791-1841) tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, là hoàng tử thứ tư của vua Gia Long và là vua thứ hai của triều Nguyễn, lên ngôi sáng mùng 1 Tết năm Canh Thìn (1820). Sách Quốc sử di biên viết: “Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, hoàng tử lên ngôi ở điện Thái Hòa, đổi niên hiệu, đại xá".
Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820 khi gần 30 tuổi nên rất hiểu chính sự. Trong thời gian trị vì, ông đưa ra nhiều cải cách quan trọng như bỏ dinh trấn, chia cả nước làm 31 tỉnh, khuyến khích dân khai hoang lập ấp. Nhà vua mở thêm thi Hội và thi Đình, trước đó thời vua Gia Long chỉ có thi Hương.
Vua Minh Mạng còn nổi tiếng là vua đông con nhất triều Nguyễn với tổng cộng 142 người, trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa. Tuy nhiên, sử sách không chép ông có bao nhiêu vợ.
Vua Thành Thái (Nguyễn Phúc Bửu Lân)
Vua Thành Thái tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân sinh ngày 22/2 năm Kỷ Mão (1879), là con thứ bảy của vua Dục Đức. Bửu Lân được chọn lên ngai vàng vào ngày mồng 1 Tết Kỷ Sửu và đăng cơ vào ngày mùng 2 (ngày 2/2/1889).
Vua Đồng Khánh băng hà khi chỉ còn ba ngày nữa là năm mới. Theo thủ tục của người Việt, tang lễ không thể gác qua hai năm. Điều đó đồng nghĩa với việc trong ba ngày triều đình phải phát tang vua cũ, lập người kế vị để năm mới có vua mới.
Con vua Đồng Khánh là Bửu Đảo không được chọn vì quá nhỏ, mới 3 tuổi. Viện Cơ mật phải qua Tòa khâm sứ Pháp để bàn bạc. Với sự cố tình dịch chệch của người thông ngôn Diệp Văn Cương, hoàng tử Bửu Lân được chọn làm người nối ngôi. Thời điểm đó, Bửu Lân đang sống ở quê ngoại với mẹ là hoàng hậu Phan Thị Điểu. Viện Cơ mật phải cho người xuống thuyết phục, rước về.
Lên ngôi khi 10 tuổi, nhưng vua Thành Thái đã bộc lộ rõ xu hướng căm ghét người Pháp nên luôn bị theo dõi và nghi ngờ. Thỉnh thoảng, vua lại có những cử chỉ, lời nói kỳ quặc, điên dại khiến quan Pháp rất nghi ngại.
Nhân việc vua không chịu phê vào bản tấu thăng chức cho một số quan lại tay chân của Khâm sứ, tòa Khâm sứ tước quyền phê chuẩn của vua, giam lỏng ông ở Đại nội và biện lý do "Thành Thái mắc bệnh điên". Thành Thái ngự trên ngai vàng được 18 năm, bị phế truất năm 28 tuổi.
Sau khi bị phế truất năm 1907, vua Thành Thái bị quản thúc ở Vũng Tàu. Đến năm 1916, khi con ông, vua Duy Tân khởi binh chống Pháp thất bại, hai cha con cùng gia đình bị đày sang đảo Réunion ở Ấn Độ Dương (thuộc châu Phi).
Sau cái chết của vua Duy Tân năm 1947, Thành Thái được đưa về nước, kết thúc 31 năm lưu đày ở đảo Réunion, tuy nhiên vẫn bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn để kiểm soát. Ông mất ngày 16/2 năm Giáp Ngọ tại Sài Gòn.
Ngoài bốn ông vua trên, còn nhiều vua khác lên ngôi vào "tháng giêng, mùa xuân", nhưng không được nêu rõ đăng cơ vào ngày nào, ví dụ Lý Bí (năm Giáp Tý 544), Lý Nhân Tông (năm Nhâm Tý 1072), Lê Trang Tông (năm Quý Tỵ 1533), Mạc Kính Vũ (năm Mậu Dần 1638).