![]() |
Các chuyên gia nước ngoài ở rừng Pù Mát. |
Thạc sĩ Lars-Ove Jonsson, người Thụy Điển - chuyên gia hợp phần nông nghiệp vùng cao của dự án lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An (dự án hợp tác giữa Chính phủ VN và Cộng đồng châu Âu) đã 61 tuổi nhưng “vẫn còn dư sức đi rừng thường xuyên”.
Trải qua 30 năm làm chuyên gia bảo tồn đất khắp các vùng rừng nhiệt đới châu Á, khi đến Pù Mát (tháng 5/2003) đặt chân vào những rẫy cây cháy đen, ông Lars khẳng định: “Người vùng cao cần lương thực để sinh sống. Vấn đề là phải giúp họ biết canh tác trên đất dốc để họ tự làm ra lương thực mà sống”.
Theo ông, đất tự nhiên của Pù Mát rất tốt nhưng một thời gian dài người dân thiểu số ở đây không biết sử dụng hợp lý, ngược lại gây lãng phí, làm mất hết tính bền vững của đất. Và ông đã bỏ công sức của mình giúp người dân không để đất trống, đất phải mọc lên ngô, lạc, hoa quả, đất phải nuôi dưỡng các loại cây công nghiệp dài ngày.
Tại vùng đệm, ông Lars mê mải tìm kiếm những thung lũng đất chỉ được sử dụng một lần rồi bỏ phí suốt hơn 20 năm.
Để xóa sổ dứt điểm “câu chuyện buồn đốt rẫy” từ năm này qua năm khác, ông đã cùng các chuyên gia hợp phần nông nghiệp vùng cao và bốn đồng nghiệp VN thành lập một loạt “nhóm phát triển cơ bản” gồm 486 hộ gia đình của 33 thôn bản ở triền đất dốc thiếu hệ thống thủy lợi, nước tưới và chủ yếu sống phụ thuộc vào rừng. Rồi ông liên tục mở lớp, làm giáo viên các đợt tập huấn từ bản lên xã, huyện, sau đó thành lập ngay một hệ thống khuyến nông cấp huyện nối liền mạng lưới khuyến nông thôn bản.
![]() |
Ông Andrew Weir (bên phải), chuyên gia Uwe (bìa trái), nữ phiên dịch và Lars. |
Những nhóm “phát triển cơ bản”, nhóm nông dân và câu lạc bộ khuyến nông hoạt động ngày càng tạo được mối liên kết giữa cộng đồng dân cư vùng đệm với rừng nguyên sinh. Ông không dừng lại ở đó. Những ngày lặn lội trong rừng, trong thôn bản là những ngày ông luôn bận rộn: lập các vườn ươm để có cây con gửi đến cho dân; vận động nâng cấp đường giao thông nội vùng, mở thị trường vùng đệm...
Giờ đây vườn rừng quốc gia Pù Mát đã thu hút khoảng 65.000 nhân khẩu của 10.450 hộ nông dân thuộc 111 thôn bản từ 16 xã vùng đệm ba huyện Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương. Hàng nghìn hecta rẫy đất dốc phủ một màu xanh mát.
Uwe Setje Eilers, thạc sĩ lâm nghiệp các nước nhiệt đới, trẻ hơn ông Lars đến 21 tuổi. Năm 1991 Uwe rời vị trí nghiên cứu và giảng dạy tại giảng đường Đại học Gottingen (Đức) và từng làm việc tại nhiều nước ở châu Phi, bây giờ đến Pù Mát để làm dự án “khoanh nuôi, phục hồi, trồng rừng”.
Lần đầu tiên đến Pù Mát, ông rất nuối tiếc vì những cây gỗ quý hiếm bị đốn hạ vô tội vạ. Nhưng nay theo lời Uwe thì: “Tình hình khai thác gỗ quý đã giảm nhiều. Nếu trước đây mỗi năm bị khai thác khoảng 10.000 m3 nay chỉ còn chưa đầy 1.000 m3; 81.000 ha rừng trong đó có 28.000 ha rừng sản xuất và phòng hộ do ba lâm trường quản lý đã dần chuyển đổi từ khai thác ồ ạt sang kinh doanh chế biến lâm sản”.
Công việc của Uwe cùng đồng nghiệp là tư vấn kinh nghiệm và kỹ thuật phục hồi cây. Những nơi rừng bị khai thác cạn kiệt giờ đây đã phủ xanh loài cây keo và cây mét. Không chỉ là trồng lại rừng, bằng nỗ lực của chính ông và hỗ trợ của dự án, những nhà máy chế biến mét, keo bán thành phẩm lần lượt ra đời ngay dưới chân rừng...
Ông Andrew Grieser Johns, 60 tuổi, người Anh, đến Pù Mát năm 1997 với vai trò chịu trách nhiệm chính về các hoạt động bảo tồn vườn quốc gia. 38 kỹ sư VN và gần 300 khuyến viên thôn bản quen gọi ông là “chuyên gia phát hiện thú quý”.
Ngay từ khi còn chân ướt chân ráo lội vào Khe Búng thuộc địa bàn xã Môn Sơn cách ranh giới vùng đệm 20 km, ông Andrew đã “ngửi thấy mùi phân lạ” và nghe được tiếng kêu “giống như tiếng sao la”. Thế là ông lao vào việc săn tìm loài thú quý ấy.
Dùng ống nhòm loại đặc chủng cũng không thấy được nó, ông nghĩ kế đặt bẫy ảnh tại một điểm có nhiều thức ăn, nơi con thú chắc chắn sẽ đi qua. Một tuần sau ông quay trở lại, chiếc bẫy ảnh đã in hình chú sao la.
Ông kể: “Đó là một chuyến đi đầy lý thú vì sau con sao la, tôi đã phát hiện một khu rừng đặc biệt với hơn 42 loài thú lớn gồm mang lớn, thỏ vằn Trường Sơn, hổ, báo gấm, voi...”. Những con thú hiếm này thường ra uống nước ở mỏ suối Khe Búng - mỏ suối nước khoáng có hàm lượng muối lớn nằm ở trung tâm giữa ngã ba rừng Cò Pạt, bản Bống, bản Còn. Từ đó trong hai năm (1998-2000) ông lập xong kế hoạch gìn giữ chúng.
(Theo Tuổi Trẻ)