Tại hội thảo khoa học ngày 18/9, các nhóm nghiên cứu của Đại học Quốc gia Hà Nội công bố kết quả nghiên cứu việc thực hiện Nghị quyết 29 ban hành năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
PGS Nguyễn Kim Sơn, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết các nhóm nghiên cứu đã khảo sát hơn 2.500 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên; phỏng vấn trên 200 cán bộ lãnh đạo, quản lý và các chuyên gia của các cơ quan trung ương, cơ quan bộ, ngành; phỏng vấn gần 1.000 học sinh và sinh viên, 500 cha mẹ học sinh; đồng thời tập hợp cơ sở dữ liệu từ các bộ ngành và các cơ quan trong 5 năm để đánh giá chuyển biến của nền giáo dục dưới tác động của Nghị quyết 29.
Theo kết quả nghiên cứu ba đề tài về giáo dục phổ thông; đổi mới thi, kiểm tra và tự chủ đại học, nhiều ưu điểm được các nhóm nghiên cứu chỉ ra. Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 vẫn còn nhiều hạn chế.

Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội phát biểu tại hội thảo. Ảnh: VNU
Công tác bồi dưỡng giáo viên phổ thông chưa theo kịp sự phát triển
Đại diện nhóm nghiên cứu đề tài "Giáo dục phổ thông: tiệm cận dần theo chuẩn quốc tế", PGS Nguyễn Chí Thành, Trưởng khoa Sư phạm của Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho biết trong 5 năm qua, chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao rõ rệt với những chuyển dịch tích cực trong chính sách, xây dựng chương trình theo tiếp cận năng lực, phẩm chất và đang ngày càng tiến gần đến chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều tồn tại. Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa theo kịp sự phát triển. Theo ông Thành, nội dung bồi dưỡng giáo viên hiện nay còn cứng nhắc, chưa đồng bộ, hạn chế trong việc tận dụng công nghệ thông tin. Chương trình đào tạo giáo viên chậm đổi mới, khả năng dự báo nhu cầu chưa tốt. Bên cạnh đó, vị thế giáo viên, lương giáo viên cũng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ hai, một số bộ phận cán bộ quản lý chưa năng động và sáng tạo; còn phải làm nhiều nhiệm vụ hành chính, sự vụ ngoài chuyên môn. "Khả năng thích ứng và sức ì của một bộ phận giáo viên cũng cản trở việc đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin cũng như tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh", ông Thành nói.
Thứ ba, chương trình mới đã ban hành nhưng chậm so với yêu cầu, chương trình hiện hành còn chú trọng về nội dung kiến thức. Ngoài ra, sự thiếu đồng bộ về chính sách cũng gây trở ngại.
Kiểm tra đánh giá, thi cử còn nhiều vấn đề
Trong 9 nhiệm vụ được đặt ra ở Nghị quyết 29, nhiệm vụ trọng tâm thứ ba là đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Theo GS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Đại học Giáo dục, nhiệm vụ này đang dần được thể chế hóa ở tất cả các cấp học.
Ví dụ ở bậc tiểu học, trọng tâm đánh giá định lượng đã được chuyển sang định tính. Ở bậc trung học và đại học, đánh giá tổng kết dần dịch chuyển sang quá trình, bám sát chuẩn đầu ra. Còn với thi tốt nghiệp và đại học, hai kỳ thi độc lập đã được gộp vào làm một.
Ông Thanh cũng cho rằng kiểm tra đánh giá đang đi đúng triết lý vì sự phát triển năng lực của học sinh. Các đánh giá đang ngày càng trở nên toàn diện, điển hình như những chuyển biến tích cực trong kỳ thi THPT quốc gia.
Tuy nhiên, việc đổi mới thi và kiểm tra đánh giá vẫn thiếu đồng bộ trong chính sách và thực thi chính sách; năng lực của đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Đặc biệt, việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia còn bộc lộ nhiều vấn đề.
Hiệu trưởng Đại học Giáo dục cho rằng cần tiếp tục duy trì mô hình thi THPT quốc gia để đảm bảo tính ổn định. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục vẫn cần thực hiện một số việc như hoàn thiện kỹ thuật; bổ sung, nâng cao chất lượng ngân hàng câu hỏi.
“Ngân hàng câu hỏi lớn sẽ giúp việc bảo mật không cần nặng nề như hiện nay bởi kể cả khi công khai, hàng chục nghìn câu hỏi ở các mức độ khác nhau cũng sẽ khiến học sinh phải có năng lực mới xử lý hết. Và khi công khai câu hỏi, dạng thức đề thi, học sinh có thể tự đánh giá, sau đó sẽ thi cử thoải mái hơn”, ông Thanh nói.

GS Nguyễn Quý Thanh. Ảnh: VNU
Nhiều thách thức với tự chủ đại học
TS Nghiêm Xuân Huy, Viện trưởng Đảm bảo chất lượng giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho rằng khi thực hiện Nghị quyết 29, tự chủ đại học trở thành nhu cầu tự thân của các trường, được xem là chìa khóa nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng đầu ra.
Tự chủ đại học góp phần giúp Việt Nam có hai trường nằm trong top 1000 thế giới theo xếp hạng QS World, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư ở các đại học (đặc biệt các trường đã tự chủ trên 2 năm) tăng rõ rệt, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ chiếm 27%, nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế được chú trọng.
Ngược lại, nhóm nghiên cứu của ông Huy cũng chỉ ra 5 rào cản, thách thức với tự chủ đại học, trong đó có cơ chế chính sách thực hiện tự chủ thiếu và chưa đồng bộ; các nhân tố liên quan trong triển khai tự chủ đại học chưa sẵn sàng; vai trò của cơ quan chủ quản, ban giám hiệu và hội đồng trường chưa rõ ràng.
Bên cạnh đó, sự thiếu năng lực và sẵn sàng tiếp nhận quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục; cơ chế tài chính chưa chuyển đổi kịp thời so với yêu cầu thực tiễn cũng là rào cản với vấn đề tự chủ đại học.