Hà Linh
Vào một ngày trong năm 1976, tôi không nhớ nổi ngày nào, có cây bút trẻ vô danh, sau thời gian dài vật lộn với một câu chuyện hấp dẫn nhưng rất khó kể, đã quyết định bắt đầu lại lần nữa, lần này, anh ta thử kể từ ngôi thứ nhất. Ngày hôm đó, anh đã viết được một khối lượng chữ đáng kể cho phần mở đầu tác phẩm Những đứa trẻ nửa đêm như chúng ta thấy hôm nay: "Tôi sinh ra ở Bombay... ngày xửa ngày xưa".
Cuối năm 1979, tôi hoàn thành bản thảo. Cuốn sách cũng đã tìm được nhà xuất bản - hai tên tuổi tốt nhất lúc bấy giờ: Jonathan Cape ở London và Alfred A. Knopf ở New York. Sự khuyến khích mạnh mẽ của họ khiến tôi tin rằng, cuối cùng chắc tôi sẽ viết được một cuốn tử tế sau nhiều năm thất bại. Nhưng sự nghi ngờ thỉnh thoảng vẫn lung lạc ý chí tôi. Thế là đôi lúc tôi cứ gạt Những đứa trẻ sang một bên để lao vào một cuốn tiểu thuyết khác Shame (Nỗi nhục). Ơn chúa là tôi đã làm như vậy. Bởi nhờ nó, khi Những đứa trẻ nửa đêm thành công vang dội, tôi có ngay việc để làm chứ không phải ngồi băn khoăn xem mình phải làm gì trên trái đất này nữa để tiếp tục thành quả đầu tiên. Tôi đã viết được một ít Shame trong cái đêm mà Những đứa trẻ nửa đêm đoạt giải Booker. Vậy nên, sau đó, tôi cứ thế tiếp tục công việc của mình.
![]() |
Nhà văn Salman Rushdie. Ảnh: AFP. |
Những đứa trẻ nửa đêm cũng mất quá nhiều thời gian để xuất bản vì liên tục gặp phải những sự cố không may. Cape và Knopf thỏa thuận sẽ in chung tại một nhà máy in ở Mỹ nhằm tiết kiệm chi phí. Nhưng rồi một cuộc đình công của công nhân nhà máy nổ ra. Kế hoạch in chậm lại. Khi tiểu thuyết cuối cùng cũng được in ra thì chúng tôi lại vướng phải một cuộc biểu tình của nhân viên ngành vận tải. Thế có nghĩa là sách không chuyển sang London được. Khi sách được chuyển đến London thì kỳ lạ, lại có đình công của công nhân bốc dỡ... Cứ thế, thời hạn xuất bản cuốn sách cứ lùi dần, còn tôi chỉ biết ngồi gặm móng tay.
Tôi còn có mối quan ngại khác. Bìa cuốn sách do nhà xuất bản Knopf thiết kế có màu hồng thịt cá hồi, làm nảy sinh liên hệ ngẫu nhiên giữa cá hồi (salmon) và tên tôi (Salman) - điều làm tôi sau này vẫn khó chịu mãi. Tôi cũng không khoái trang bìa của nhà Cape. Nhưng khi tôi rụt rè hỏi xem là liệu có phương án nào thay thế không, họ đều dõng dạc trả lời rằng, việc đó sẽ khiến cho cuốn sách của tôi càng chậm được ra mắt.
Tôi vẫn nhớ những giây phút hạnh phúc nhất mà cuốn sách mang lại. Đầu tiên là bữa tiệc ra mắt thành công tại một nhà hàng nhỏ ở London. Cùng với Liz Calder - biên tập viên cuốn sách, Susannah Clapp - một trong những độc giả đầu tiên và vài ba người bạn thân thiết, tôi đã nói về những lời phê bình thiện cảm dành cho tác phẩm.
![]() |
Bìa cuốn "Những đứa trẻ nửa đêm". |
Thời điểm thứ hai là khi tôi vừa bước vào đêm trao giải thưởng Booker. Carmen Callil - sau này là ông chủ nhà xuất bản Virago - rỉ tai tôi rằng, tôi sẽ là người chiến thắng. Lúc đó, tôi lại đinh ninh rằng, mình không thể nào có giải được.
Giới phê bình viết nhiều về cuốn sách, nhưng tôi không nhớ lắm. Có ba bài viết tôi không thể quên là bài của Anita Desai trên tờ Washington Post, của Clark Blaise trên New York Times và của Robert Towers trên New York Review of Books.
Tôi cũng không sao quên được những lời chỉ trích. Chương trình truyền thanh Kaleidoscope của BBC đã dành một thời lượng lớn cho cuốn sách của tôi. Họ chuẩn bị khá chu đáo: âm nhạc Ấn Độ mở màn để giới thiệu tác phẩm, trích đọc nội dung, phỏng vấn đầy thiện cảm với tôi và cuối cùng là phó thác cuốn sách cho cây bút phê bình của họ - một người không hề giấu giếm thái độ ghét bỏ tác phẩm. Sheridan Morley - người dẫn chương trình - không ngừng "lái" nhà phê bình (tôi quên tên rồi) bằng những câu hỏi khéo để vớt vát chút tán tụng kiểu như: "Nhưng ông không nghĩ là...", "Liệu rốt cuộc ông có công nhận là..."... Nhưng nhà phê bình vẫn không bị lung lạc. Tóm lại là ông ta không thích cuốn tiểu thuyết chút nào. Đó là một trong những chuyện rất vui, rất thú vị về cuốn sách.
(Nguồn: latimes)