![]() |
Celena Kopinski và Mei Lan Fogarty, hai cô bé người Trung Quốc được nhận làm con nuôi tại Mỹ. (NYT) |
Qiu Meng Fogarty, 13 tuổi, thì lại thích được gọi bằng tên tiếng Trung hơn là Cecelia, tên tiếng Anh của cô. Qiu tình nguyện tham gia các hội thảo dành cho trẻ được nhận làm con nuôi từ Trung Quốc tại New York, "để cho họ biết rằng chúng tôi đều ổn", cô bé nói.
Kể từ năm 1991, khi Trung Quốc nới lỏng luật cho nhận con nuôi nhằm giải quyết tình trạng ngày càng nhiều trẻ em bị bỏ rơi do chính sách một con, các gia đình Mỹ đã nhận nuôi hơn 55.000 đứa trẻ nước này, và hầu hết là con gái. Đa số những đứa trẻ này đều dưới 10 tuổi và được tiếp xúc với một nền văn hóa nhỏ khác cùng với các nhóm bạn, các chuyến thăm Trung Quốc và nhà hoạt động xã hội.
Molly và Qiu Meng đại diện cho lứa con nuôi sắp đến tuổi trưởng thành, được nhận nuôi ngay sau khi luật kể trên thay đổi và rất lâu trước khi việc nhận con nuôi từ Trung Quốc trở nên phổ biến, thậm chí thành mốt.
Molly là một trong 61 đứa trẻ Trung Quốc được người Mỹ xin làm con nuôi năm 1991 và Qiu Meng là một trong số 206 em được nhận nuôi một năm sau đó. Năm ngoái, số trẻ Trung Quốc được người Mỹ nhận nuôi là 7.900.
Khi lớp trẻ đầu tiên này bước qua tuổi thiếu niên, chúng bắt đầu trở nên độc lập cùng với sự hăng hái và bối rối khi khám phá bản sắc của mình. Những gì mà họ trải qua cũng sẽ giống như những gì mà hàng nghìn đứa trẻ Trung Quốc khác, đang trở thành một phần của các gia đình Mỹ, sẽ trải qua.
Sự nhìn nhận về bản thân của chúng chịu ảnh hưởng bởi mức độ phong phú về sắc tộc tại nơi chúng sinh sống, tại trường học cũng như mức độ tiếp xúc đối với nguồn gốc của bản thân.
"Chúng tôi chẳng giống ai cả", Qiu Meng nói. Song Molly lại không suy nghĩ như vậy. "Tôi thấy mình chẳng khác gì bất cứ ai", cô bé nói. Bạn của Molly tất cả đều cao, gầy và tóc vàng. Vẻ khác biệt về hình thức là chuyện bình thường, các chuyên gia về việc nhận con nuôi khác chủng tộc cho hay.
Hầu hết các gia đình nhận con nuôi từ Trung Quốc thuộc giai cấp từ trung lưu trở lên.
Jane Brown, một nhân viên hoạt động xã hội đồng thời có con nuôi người Trung Quốc, cho rằng các gia đình này nên trực tiếp đối diện với những vấn đề như sự lúng túng và chối bỏ mà những đứa trẻ sẽ gặp phải khi chúng bắt đầu hiểu về lý do chính trị và giới tính khiến gia đình ở Trung Quốc từ bỏ chúng.
"Việc khoác lên người bọn trẻ những bộ quần áo Trung Quốc đẹp đẽ là một chuyện, nhưng bọn trẻ cần mối liên hệ thực sự với những người Mỹ gốc Á chứ không chỉ nhìn thấy những người bồi bàn Trung Hoa vào dịp Tết Nguyên đán."
Nancy Kim Parsons, một nhà sản xuất phim gốc Triều Tiên, đang làm một bộ phim tài liệu so sánh trải nghiệm của những người con nuôi gốc Hàn Quốc đã trưởng thành với những đứa trẻ từ Trung Quốc.
Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên mà người Mỹ nhận rất nhiều trẻ làm con nuôi cùng với Nga, Guatemala, Ukraina, Kazakhstan, Ấn Độ và Ethiopia. Kinh nghiệm với những người gốc Hàn Quốc sẽ giúp các gia đình có con nuôi người Trung Quốc.
Hollee McGinnis, 34 tuổi, giám đốc về chính sách của Viện Donaldson đã được nhận làm con nuôi từ Hàn Quốc và lớn lên ở Westchester, New York. 10 năm trước, cô bắt đầu thành lập nhóm Also Known As để cố vấn cho những đứa trẻ gốc Hoa.
"Lên đại học là lúc tôi bắt đầu thực sự cố gắng tìm hiểu xem tại sao người ta cứ nhìn chằm chằm vào mặt mình. Trước đó, tôi không thực sự hiểu rằng là người châu Á có nghĩa là thế nào".
Những gì mà McGinnis đã trải qua lại đang là những gì McKenzie Forbes, 17 tuổi, đang gặp phải. Forbes lớn lên tại Virginia nơi có rất ít người châu Á. Đối với cô, đại học là nơi hứa hẹn cái gì đó mới mẻ.
"Tôi cảm thấy mình như đã sẵn sàng đột phá", McKenzie nói. "Khi tôi ở bên cạnh những người châu Á khác, tôi cảm nhận được sự gắn kết mà tôi không có được khi ở bên những người khác. Tôi không thể giải thích chính xác được nhưng tôi nghĩ gặp gỡ mọi người và nghe kể về chuyện của họ thật là thú vị". McKenzie đã chỉ xin vào các trường đại học có cả sinh viên châu Á và đã được trường Dickinson ở Pennsylvania nhận.
McKenzie có cô em gái Meredyth, 15 tuổi, cũng là người Trung Quốc và hai cậu em trai Robert và John, đôi anh em sinh đôi đến từ Việt Nam. Gia đình này rời Culpeper, Virginia khi McKenzie 5 tuổi sau khi lũ trẻ ở trường tẩy chay cô bé vì là người Trung Quốc.
Điều mà McKenzie và Meredyth gặp phải thường xuyên hơn sự phân biệt chủng tộc là thái độ coi thường, ví dụ họ đã bị yêu cầu ra khỏi lớp để tham gia một bài kiểm tra tiếng Anh dành cho học sinh nhập cư.
"Có khi chúng tôi nói tiếng Anh còn giỏi hơn cả giáo viên hướng dẫn", Meredyth nói.
Mùa hè năm ngoái, Qiu Meng cùng hai bạn là Celena Kopinski và Hope Goodrich, đều là con nuôi người Trung Quốc, tham dự trại hè cho con nuôi từ khắp nơi trên thế giới. Khi kỳ nghỉ kết thúc, những người cố vấn tập trung họ lại thành một vòng tròn và gắn kết họ bằng một sợi dây. Mỗi đứa trẻ trở về nhà với một đoạn dây buộc vào cổ tay để gợi nhớ những gì họ đã cùng trải qua.
Khi một huấn luyện viên bóng chuyền yêu cầu Qiu Meng cắt bỏ sợi dây trước khi chơi, cô bé đã cẩn thận cất nó đi, mang về nhà và treo trong phòng ngủ, dưới những bức vẽ và thư pháp Trung Quốc.
Tất cả những đứa trẻ này đều thừa nhận rằng chúng chỉ mới đang bắt đầu quá trình tự khẳng định, và dù Molly vẫn cố thuyết phục cha mẹ cho bỏ lớp múa Trung Quốc, cô bé thú nhận rằng việc học đó là có ích.
"Nếu bố mẹ không bắt buộc có lẽ tôi đã bỏ lớp múa này từ lâu và sau đó có lẽ tôi sẽ chẳng có gì khi cần đến".
Molly, Qiu Meng và McKenzie cho biết họ không muốn lớn lên theo cách khác và đều nói rằng một ngày nào đó, họ muốn nhận con nuôi từ Trung Quốc. "Đó là một việc tốt. Vì tôi là người châu Á nên chúng tôi trông sẽ không khác gì nhau".
Ngọc Sơn (theo IHT)