Chiếc McLaren MP4/2B. |
1986: McLaren MP4/2C
Alain Prost lặp lại thành tích, vẫn với xe McLaren trang bị động cơ turbo của hãng Porsche, cho dù thời điểm đó, đội Williams Honda thống trị về kỹ thuật. MP4/2C có vỏ composite, động cơ TAG V6, dung tích 1498 cc. Công suất ước tính hơn 1.000 mã lực, hộp số 5 cấp, nặng 540 kg. |
1987: Williams FW11B
Nelson Piquet vô địch lần thứ 3, nhờ sự trợ giúp của người đồng đội Nigel Mansell, qua đó khẳng định ưu thế của xe Willams trang bị động cơ Honda.
Chất liệu composite được ưa thích trong việc chế tạo vỏ xe. Với động cơ V6 do hãng Honda cung cấp, tổng dung tích 1.498 cc, chiếc xe có thể sinh ra một công suất 800-1.000 mã lực, phụ thuộc vào áp lực nén. Hộp số 6 cấp, trọng lượng tịnh của FW11B là 540 kg. |
2 năm tiếp theo, chiến thắng đều thuộc về đội McLaren. Năm 1988, Ayrton Senna giành chiến thắng đầu tiên cho cá nhân mình. Quan hệ giữa anh và Alain Prost bắt đầu rạn nứt. Cho đến năm sau, khi tay đua người Pháp vượt qua sự ganh đua từ đồng đội, lần thứ ba vô địch thế giới thì mối bất hoà đã trở nên không thể cứu vãn. Kết thúc mùa giải, Prost chuyển sang đua cho đội Ferrari.
McLaren có đối tác mới là Honda. Chiếc MP4/4 nhờ vậy được trang bị động cơ turbo V6 hãng xe Nhật Bản. Dung tích 1.500 cc, có 2 máy nén nhiên liệu. Công suất tối đa đạt 900 mã lực ở 12.500 vòng/phút. Trọng lượng tịnh của xe là 540 kg. | |
Sự cộng tác giữa McLaren và Honda tiếp tục phát huy hiệu quả. Xe MP4/5 lắp động cơ 10 xi-lanh, xếp góc chữ V 72 độ, dung tích 3.490 cc và đạt công suất 685 mã lực ở 13.000 vòng/phút. Tốc độ tối đa của xe là 329 km/h. |
Lê Trần