Nếu chưa khởi tố vụ án, cơ quan điều tra có thể ra lệnh tạm giữ hay áp dụng biện pháp ngăn chặn không?
Luật sư trả lời
Theo điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Các trường hợp bắt người gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Như vậy, luật không quy định chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn với một số tội danh nhất định. Các biện pháp ngăn chặn nói trên được áp dụng với mọi tội phạm.
Riêng hình thức tạm giam, hình thức ngăn chặn nghiêm khắc nhất, pháp luật có một số quy định chi tiết hơn được nêu tại điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Cụ thể:
1. Tạm giam có thể áp dụng với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến hai năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thời điểm áp dụng biện pháp ngăn chặn
Ở mỗi giai đoạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng một biện pháp ngăn chặn nhất định với người liên quan, bị can, bị cáo.
Trường hợp chưa khởi tố bị can, cơ quan điều tra có thể áp dụng hình thức giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Sau khi người tình nghi đã bị khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền ra lệnh tạm giam trên cơ sở luật định. Các hình thức ngăn chặn khác như: Bảo lĩnh, Đặt tiền để bảo đảm, Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể thay thế biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ.
Với biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, điều 124 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định cơ quan chức năng có thể tạm hoãn xuất cảnh với những người sau đây khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn:
a) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
b) Bị can, bị cáo.
Với quy định nói trên, người tình nghi có thể bị tạm hoãn xuất cảnh ngay cả khi chưa bị khởi tố.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội.