Thời đó vào trung tuần tháng chạp, dù không hẹn ước mà cả thôn làng nhà nào cũng bắc thang, mang ghế ra trước sân vườn nô nức trảy trụi lá ma,i để mong sao những nụ hoa kịp nở vàng rực rỡ vào đúng sáng mồng một Tết.
Cuối năm, vụ mùa thu hoạch đã xong, bước vào giai đoạn nông nhàn nên mọi nhà có thừa thời gian chuẩn bị hoa trái, làm các loại bánh mứt, nấu rượu hưởng xuân. Dẫu là năm được hay mất mùa, chẳng kể hộ giàu hay nghèo, với nông dân quê tôi Tết bao giờ cũng là ngày vui lớn của dân tộc. Ai cũng được no đủ, thảnh thơi thăm viếng nhau. Bởi thúng nếp, vài ký đậu, vài ký thịt lợn để gói bánh chưng, chẳng hề là mối bận tâm. Nhà nào không có sẵn gạo nếp thì sang hàng xóm vay tạm, đến mùa thu hoạch năm sau trả lại. Lợn thì vài nhà xẻ thịt chung một con, khi nào trả tiền cho chủ cũng được. Tình người chốn quê gắn bó, thiết thân là vậy đó!
Trong số công việc phải làm chuẩn bị đón Tết, thì nồi bánh chưng luôn được xem là quan trọng nhất. Với tôi, đây cũng là công việc để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm tư, nó tồn tại mãi từ thuở thơ ấu cho đến tận ngày nay, khi tôi đã bước sang tuổi ngũ tuần. Trước Tết vài tuần, anh hai và tôi đánh xe bò vào rừng lấy củi về để dành riêng cho nồi bánh chưng. Chúng tôi chỉ chọn loại củi chắc thớ như bằng lăng, căm xe, trâm bầu... để sau khi cháy mới đượm than hồng.
Tinh mơ ngày 29, tôi và vài đứa bạn trạc tuổi vác cù nèo cán dài hơn mét, một dao con, cùng một giỏ đệm lớn đi vào các vườn chuối bạt ngàn xin lá. Lá chuối sau khi mang về được mẹ tôi phơi qua ngoài nắng cho dai, chiều đến gom chúng lại, lau sạch sẽ hai mặt rồi xếp gọn gàng vào thúng.
Trưa 30, cả nhà lớn bé xúm nhau dưới nền bếp cùng hể hả với việc gói bánh chưng. Sau vài tiếng bánh gói xong, được xếp đầy cái nồi thật lớn rồi khiêng ra ngoài bờ giếng, nơi ba tôi đã chuẩn bị sẵn ông táo và những miếng tôn che gió. Nồi bánh được đặt lên ông táo vững vàng, anh hai múc nước trong hồ đổ vào cho ngập, xong xuôi ba tôi châm lửa dưới đáy nồi. Mọi thành viên trong nhà có mặt đầy đủ, để chứng kiến sự kiện trang trọng chỉ diễn ra một lần trong năm.
Anh hai và tôi chia ca canh nồi bánh, tôi thường chọn phiên canh từ 23h cho đến sáng. Khi canh nồi bánh, cái thú vị là chúng tôi được nhâm nhi củ khoai lang, mớ hột mít thơm lừng lôi ra từ đống tro nóng, để thấm thía cái lạnh se sắt dưới sương đêm bạc đầu. Chúng tôi được hơ tay trên bếp lửa đỏ rực than hồng và nhất là để được chứng kiến thời khắc linh thiêng khi đất trời giao hòa trong rền vang tiếng pháo.
Rồi "bể hóa nương dâu", cánh rừng cách làng tôi không xa lắm đã bị tàn phá trụi lũi, nên củi nấu bánh kiếm không ra. Những vườn chuối bạt ngàn bị chặt bỏ để thay vào đó là trang trại, ao cá... Bánh chưng ngày nay được bày bán quanh năm, chẳng cứ gì phải đến tết mới có, nên không ai còn cảm giác thèm thuồng. Trong thời đại công nghiệp, thời gian trở nên quý giá, người ta hối hả chạy đua với nó để làm giàu, chẳng mấy ai còn cái thú tự gói bánh chưng ngày tết nữa, việc ấy mất quá nhiều công sức!
Mặt khác, nhiều loại bánh kẹo, thực phẩm chế biến sẵn có bao bì bắt mắt tràn lan khắp chốn từ thành thị tới nông thôn vào dịp Tết, mang đến nhiều hấp dẫn cho khẩu vị người ăn. Vìa vậy, miếng bánh chưng xanh không còn là sản vật quý giá trong những ngày xuân như trước đây. Với nhiều gia đình, bánh chưng bị xem là thực phẩm thứ yếu trong ba ngày Tết, có cũng được, không có cũng được vì đã có nhiều thứ khác thế vào.
Tôi thấu hiểu cuộc sống là thế nên buộc lòng phải chấp nhận! Nhưng tự sâu kín nơi tâm hồn mỗi độ xuân về, nghe dư âm bài hát từ nhà hàng xóm vọng sang: "... trông bánh chưng chờ trời sáng đỏ hây hây những đôi má đào...", tôi lại nhớ da diết kỷ niệm về thời thơ ấu từng ngồi bên bếp than hồng canh nồi bánh chưng.
Bài hát ấy luôn làm dạ tôi nôn nao, vì thấy hình ảnh của chính mình trong đó. Nhớ lắm thuở tết quê thanh bình.
Từ ngày 15/1 đến hết 1/3, độc giả VnExpress có thể tham gia cuộc thi "Tết và tuổi thơ" để chia sẻ những cảm xúc, kỷ niệm ngày Tết bé thơ đầm ấm bên gia đình. Độc giả bấm vào đây để tham gia. |
Nguyễn Ngọc Sáng