Người gửi: Vương Ngọc Liên
Gửi tới: Ban Thế giới
Tiêu đề: CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ NHÌN LẠI SAU NĂM NĂM.
Thời kỳ quá độ đã được hoàn thành, nhưng rõ ràng chiến tranh ở Iraq vẫn còn đó. 138.000 lính Mỹ được triển khai vẫn không sao "bình định" được đất nước kiệt quệ vì bom đạn này. Ngay cả các cơ sở dầu lửa, một trong những động lực chính khiến chính quyền Bush phải tiến đánh Iraq, cũng không hoàn toàn được bảo đảm an ninh bất chấp việc đang được hưởng một ngân sách an ninh khổng lồ của cả Mỹ và Chính phủ Iraq.
Trong bối cảnh ấy, Mỹ đã tính toán việc rút quân? Nhưng đối với Henry Kissinger, cha đẻ của học thuyết ngăn chặn kép Iraq - Iran, thì vấn đề không phải là việc rút quân. Vị ngoại trưởng Mỹ thời Nixon cho rằng: "Về Iraq, có hai câu hỏi được đặt ra: làm sao thoát khỏi vũng lầy? Và làm thế nào khai thông một lối thoát, mà không gây hậu quả tai hại cho cả thế giới, kể cả những nước từng kiên quyết phản đối hành động can thiệp quân sự của Mỹ?".
Những hậu quả của việc tháo lui nhanh chóng là gì? Thổ Nhĩ Kỳ sẽ náo loạn vì các khu vực của người Kurd; Iran sẽ can thiệp để thống trị miền Nam Iraq; các nước Hồi giáo Sunni có thể hình thành một mặt trận chống lại người Shi'ite. Chưa hết, vì nguy cơ nội chiến vẫn còn dẫn đến câu hỏi về hậu quả của sự can thiệp của bên ngoài. Rõ ràng, Chính quyền Bush và tân Chính phủ Iraq chưa có cách gì "khuất phục" lực lượng kháng chiến trên cả phương diện chính trị lẫn quân sự.
Nếu một chế độ kiểu Hồi giáo chính thống hay kiểu Taliban được hình thành ở một phần của đất nước Iraq sau hoặc trong khi Mỹ rút quân, và nếu Iraq trở thành một căn cứ của các hoạt động Hồi giáo chính thống, thì điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tất cả các nước có người Hồi giáo sinh sống, từ châu Âu đến Đông Nam Á. Nguy cơ này là có thật và đang được đặt ra tại Iraq.
Tình hình ở Afganistan cũng không tốt hơn là bao. Hàng loạt vụ tấn công bằng bom vừa xảy ra ở thủ đô Kabul đã khiến dư luận lập tức nghĩ đến sự mong manh của chính phủ Karzai và đặt vấn đề về sự đáng tin cậy của các lực lượng an ninh Afganistan và NATO. Vậy là thủ đô Kabul không còn là nơi bất khả xâm phạm như khẳng định của Mỹ, Anh và Chính phủ Karzai. Sự nổi dậy khắp nơi của các nhóm Taliban đang đẩy Afganistan chìm sâu vào hỗn loạn và làm gia tăng tình cảm bất an vốn đang rất nặng nề trong dân chúng.
Afghanistan quả thực đang chuyển sang một giai đoạn đẫm máu nhất kể từ khi chế độ Taliban sụp đổi năm 2001, khiến nhiều người lo ngại về nguy cơ của một cuộc chiến tranh toàn diện mới ở đất nước nổi tiếng thế giới về sản xuất và buôn bán ma túy này. Một lần nữa, Mỹ và liên quân đang bất lực trong việc bình ổn tình hình Afganistan bất chấp việc Chính phủ nước này đã được tăng cường thêm nhiều lực lượng đã qua các bài tập huấn luyện của phương Tây. Taliban hồi phục sức mạnh một cách nhanh chóng.
Khi các cuộc xung đột liên cộng đồng khiến cho tình hình an ninh ở Iraq trở nên căng thẳng hơn, và khi Chính phủ Anh được kêu gọi phải nhanh chóng có thông báo về kế hoạch rút quân khỏi chiến trường này, thì ngày càng có nhiều ý kiến thống nhất rằng cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ và đồng minh tại Iraq và tại Afganistan đang thực sự thất bại. Mỹ đang thất bại trong cuộc chiến chống khủng bố vì chỉ quan tâm đến việc xử lý phần hiện tượng, trong khi lại bỏ quên phần nguyên nhân của vấn đề.
Các ý kiến kết luận về một thất bại của Mỹ và đồng minh đang ngày càng trở nên thống nhất hơn. Trên cả phương diện chính trị lẫn chiến lược, và theo một cách nào đó, hầu hết các nhà phân tích đều thừa nhận rằng cuộc chiến ở Iraq và Afganistan đều chưa cho phép Mỹ đạt được các mục tiêu "cao cả" đã dự kiến từ trước khi phát động chiến tranh xâm lược. Bất luận các mục tiêu đó là gì, thực tế tại 2 nước bị chiếm đóng trên vẫn cho thấy những nét thảm khốc của 2 chiến trường thực sự chưa có hồi kết và cũng chưa biết tới bao giờ thì đến hồi kết.
Rõ ràng, 2 cuộc chiến trên đều không tuân theo một "thể thức đơn giản". Lúc đầu, dư luận tưởng rằng tất cả chỉ là những cuộc xung đột chóng vánh, và ai cũng tin hành động quân sự sẽ sớm chấm dứt sau sự sụp đổ lần lượt của các chế độ Taliban ở Afganistan và Saddam Hussein ở Iraq. Nhưng chiến tranh đang ở thời hiện tại tiếp diễn với một cường độ không thể tin nổi, đến nỗi một viên tướng của Anh đã phải thốt lên rằng người Afganistan được sinh ra "đúng là để làm chiến tranh"! Nhưng có đúng là họ thích chiến tranh?
Tại Iraq, mọi chuyện trở nên khác hẳn bởi lực lượng vũ trang đối lập hoàn toàn không có nét gì giống các chiến binh Taliban ở Afganistan, và thậm chí sự ngờ vực còn hướng tới các nhóm lãnh đạo cao nhất trong bộ máy quyền lực do phương Tây dựng lên. Và đó chính là sự thất bại của cái mà Chính quyền Bush, từ năm 2003, gọi là cuộc chiến toàn diện chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thấy ngày càng nhiều công dân phương Tây có ý kiến cho rằng thế giới bây giờ còn kém chắc chắn hơn so với thời kỳ trước ngày 11/9/2001; thậm chí, ngày càng có ý kiến cho rằng thế nào cũng sẽ xảy ra một cuộc tấn công quy mô nữa nhằm vào Mỹ và các đồng minh của Mỹ.
Tháng 6/2006, với sự ủng hộ của một nhóm làm việc ở Washington, tạp chí danh tiếng "US Foreign Policy" đã tiến hành tham vấn 116 chuyên gia Mỹ danh tiếng nhất thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa về cuộc chiến chống khủng bố vừa nêu. Trong danh sách được lấy cân bằng giữa hai đảng này có một cựu ngoại trưởng, hai cựu giám đốc CIA và hàng loạt nhà phân tích chính trị và chiến lược tiếng tăm. Kết quả ra sao? 84% trong số này đánh giá rằng nước Mỹ đang thất bại trong "cuộc chiến chống khủng bố", 86% khẳng định thế giới ngày nay nguy hiểm hơn trước và hơn 80% khẳng định sẽ có một cuộc tấn công mới và tầm cỡ nhằm vào Mỹ hoặc đồng minh trong vòng một thập kỷ tới.
Đối với Leslie Gelb, chủ tịch Hội đồng quan hệ đối ngoại (Thượng viện Mỹ), sự "hầu như thống nhất" của cuộc tham vấn trên xuất phát từ thực tế rằng gần như tất cả mọi người đều rõ rằng Bush và đội ngũ của ông có một khái niệm hoàn toàn phi thực tế về đối tượng được xử lý bằng sức mạnh quân sự". Đối với Pháp, thậm chí khái niệm "chiến tranh chống khủng bố" còn được nhiều chính trị gia và chuyên gia phân tích nhấn mạnh phải xem lại. Theo nhận xét của Alain Chouet, một cựu sĩ quan DGSE (tình báo đối ngoại Pháp), chiến tranh chống khủng bố là "một quyết định tồi ngay từ đầu", và có thể ví nó như "một cuộc chiến tranh chọc giận".
Mỹ có ý niệm "cuộc chiến chống khủng bố" kể từ sau 11/9/2001, nhưng đã không đặt ra được những câu hỏi chính xác, và vì vậy Washington đang đứng trước nguy cơ không tìm được những câu trả lời chính xác. Việc đặt vấn đề tồi chắc chắn dẫn đến những câu trả lời tồi. Mỹ có thể thảm sát các phần tử bị coi là khủng bố, nhưng số những phần tử này quả thật giống như một cái kho vô hình không bao giờ cạn.
Có rất nhiều chuyên gia khẳng định Chính quyền Bush chỉ biết tấn công vào hiện tượng, trong khi điều quan trọng là phải giải quyết triệt để phần nguyên nhân: nguyên nhân đó liên quan đến tư tưởng Hồi giáo cực đoan, Arập Xêút và hệ thống "những người anh em Hồi giáo". Nhưng Mỹ không muốn và không dám đụng chạm vào phần nguyên nhân đó. Và chính vì vậy Iraq đang bị biến thành một Afganistan mới. Thêm vào đó là gì? Nhà tù Guantanamo, rồi những vụ bê bối kiểu Abou Ghraib, những vụ thảm sát kiểu Mỹ Lai..., tất cả tạo ra những lý do, những cái cớ để tư tưởng cực đoan có chỗ đứng và phát triển nhờ có sự ủng hộ.
Michael Scheuer, giám đốc "đơn vị chống Bin Laden" (mới quyết định giải thể) của CIA từ 1996 - 1999, cùng thừa nhận thẳng thừng: "Rõ ràng là chúng ta đã thất bại. Đồng minh duy nhất mà Al Qaeda có được chính là chính sách đối ngoại của Mỹ đối với thế giới Hồi giáo".
Bên kia bờ Đại Tây Dương, tâm trạng cũng tương tự, đến nỗi Tony Blair phải rất nỗ lực tìm cách trấn an những lo sợ ngày một lớn ở Luân Đôn. Vừa mới đây, tướng Ed Butler, Tư lệnh các lực lượng Anh tại Afganistan, đã công khai cho biết ông buộc phải đề nghị Bộ Quốc phòng Anh tăng viện cho chiến trường này: "Chúng tôi thừa nhận đây là một cuộc chiến khó khăn".
Một báo cáo mới công bố (tháng 7, được soạn thảo nhân kỷ niệm một năm ngày xảy ra các vụ khủng bố ở Luân Đôn khiến hàng trăm người chết và bị thương) của Uỷ ban đối ngoại Nghị viện Anh đã nhấn mạnh rằng cuộc chiến ở Afganistan và Iraq đã không làm giảm tình trạng khủng bố quốc tế, mà ngược lại, còn khiến các mối đe dọa ngày càng tăng lên. Theo báo cáo có tựa đề "Cuộc chiến chống khủng bố" này, hành động xâm lược Afganistan, và đặc biệt là Iraq, đã tạo ra một nguồn tuyên truyền rộng khắp cho chủ nghĩa khủng bố, đồng thời cũng cung cấp một "căn cứ huấn luyện lý tưởng" cho các phần tử khủng bố.
Sau những nhận định và đánh giá đầy vẻ bi quan, tài liệu này đã kêu gọi Chính phủ Anh thông báo kế hoạch rút quân khỏi Iraq, nơi các cuộc xung đột liên cộng đồng diễn ra như cơm bữa đang khiến tình hình ngày càng trở nên rất căng thẳng bất chấp việc Thủ tướng Al-Maliki công bố một kế hoạch hòa giải dân tộc mới với sự ủng hộ của Mỹ và Liên đoàn Arập. Afganistan và Iraq đang thực sự là nỗi lo ngại của nước Anh. Để tránh lặp lại các sai lầm cũ, bản báo cáo đã thúc giục Chính phủ Anh tiến hành những vận động hành lang bên cạnh Chính quyền Mỹ để thuyết phục các nhân vật bảo thủ mới rằng một hành động quân sự nhằm vào Iran chắc chắn sẽ lại gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng không chỉ ở Trung Đông mà cả ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới trong khi vẫn không bảo đảm được mục tiêu cản trở Iran trang bị vũ khí hạt nhân.