Theo bác sĩ Bùi Thị Phương, hiện nay tuổi trưởng thành đang được "trẻ hóa", còn tuổi kết hôn trung bình ngày càng cao hơn, khoảng thời gian tiền hôn nhân kéo dài là nguyên nhân khiến tình trạng nạo hút thai và số người lây nhiễm bệnh qua đường tình dục, HIV/AIDS tăng cao.
Tuy nhiên, việc bạn trẻ chủ động tìm hiểu, chăm sóc các vấn đề sức khỏe sinh sản trước khi cưới còn rất hạn chế. Lý do chính của tình trạng này là tâm lý ngại ngùng, hoặc không có sự đồng nhất tư tưởng giữa nam và nữ. Hầu hết mọi người chưa nhận thức được sự cần thiết và lợi ích của việc chăm sóc sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân.
Tư vấn sức khỏe sinh sản tại vùng cao Quảng Ninh. Ảnh: Sức khỏe Đời sống. |
Bác sĩ Phương cho biết chăm sóc sức khỏe sính sản tiền hôn nhân có một số lợi ích to lớn sau:
1 - Hạn chế được tỷ lệ mắc các bệnh di truyền
Nhiều dị tật bẩm sinh hay bệnh tật của con cái có thể là do di truyền từ bố mẹ.
Chẳng hạn bệnh huyết tán bẩm sinh (Thalassemia) là loại bệnh di truyền do biến đổi gene từ nhiều thế hệ trước, không hoặc rất ít đột biến mới. Người bị bệnh nặng khi có sự kết hợp 2 gene bệnh của bố và mẹ, nghĩa là điều này xảy ra khi cả hai cha mẹ đều mang gene bệnh.
Bệnh nhân mắc bệnh này bị thiếu máu nặng cần phải điều trị truyền máu định kỳ, khi có thừa sắt thì điều trị để thải sắt. Nếu không được điều trị đầy đủ thì bệnh nhân sẽ có rất nhiều biến chứng như: biến dạng xương mặt, sạm da, gan lách to, suy tim... gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống và tuổi thọ thấp. Chi phí khám chữa bệnh cũng là gánh nặng cho gia đình.
Do sự thiếu hiểu biết về kiến thức sinh sản, nhiều cặp vợ chồng đã sinh con bị dị tật không có não, thoát vị não, não úng thủy, bại não, dị tật cơ xương... chết ngay khi chào đời không phải hiếm, còn những đứa trẻ bị sứt môi, hở hàm ếch, dị tật tứ chi, dị tật bộ phận sinh dục... dù sống được nhưng nỗi khổ vẫn đeo đẳng bản thân đứa trẻ, gia đình và xã hội suốt đời.
2. Hạn chế các bệnh lây nhiễm
Mỗi năm Bệnh viện Phụ sản Trung ương phát hiện khoảng gần 100 sản phụ nhiễm HIV, phần lớn khi đến đây mới biết mình mắc bệnh. Họ, giống như bao người vợ khác, trước khi kết hôn đều không kiểm tra sức khỏe và không biết rõ về thể trạng của bạn đời.
Khi khám sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân, những người có HIV sẽ được tư vấn áp dụng biện pháp tránh thai phù hợp, nếu muốn sinh con cần phải làm gì... để giảm thiểu những hậu quả có thể để lại cho thế hệ sau. Ví dụ, người phụ nữ nhiễm HIV sinh con thì tỉ lệ lây truyền từ mẹ sang con khoảng trên 30%. Nếu được tư vấn, chăm sóc, điều trị tốt có thể giảm tỉ lệ này xuống dưới 10%, thậm chí có thể dưới 2%...
Bệnh viêm gan B lây truyền từ mẹ sang con là chủ yếu. Nếu mẹ mắc bệnh trong giai đoạn 3 tháng đầu của thai kỳ thì tỷ lệ lây nhiễm là 1%, nếu mẹ bị bệnh ở 3 tháng giữa của thai kỳ thì tỷ lệ lây sang con là 10% và sẽ tăng cao tới 60 - 70% nếu mẹ bị mắc bệnh ở 3 tháng cuối của thai kỳ.
Nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi có thể lên tới 90% nếu không có biện pháp bảo vệ ngay sau khi sinh, 50% số trẻ này sẽ bị viêm gan mạn tính và có nguy cơ bị xơ gan lúc trưởng thành.
3. Giữ gìn hạnh phúc gia đình
Không ít trường hợp vì thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản mà tình cảm vợ chồng rạn nứt, kéo theo là suy giảm kinh tế, sức khỏe, tâm lý... lâu dài, đe dọa hạnh phúc gia đình. Phần lớn những rắc rối ấy có thể dự phòng nếu người nam và người nữ được hướng dẫn và chăm sóc sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân tốt.
Việc chuẩn bị kiến thức, tâm lý cho cuộc sống tình dục vợ chồng sẽ khắc phục tối đa những lo lắng, sợ hãi, rối loạn cảm xúc, không thỏa mãn hay nghi ngờ lẫn nhau, hiểu rõ được những đặc tính của giới và tránh lây nhiễm cho nhau những căn bệnh lây truyền qua đường tình dục. Sự hiểu biết và thực hiện những biện pháp sinh đẻ có kế hoạch không chỉ giúp kiểm soát được số con, khoảng cách giữa các lần sinh mà còn là một biện pháp bảo vệ sức khỏe và hình thức của người phụ nữ, tránh việc mang thai ngoài ý muốn dẫn đến phải nạo phá thai.
Những kiến thức về việc dự phòng bệnh lý, dị tật bẩm sinh cho con là hết sức quan trọng. Những bệnh tật ở người cha, người mẹ tương lai có thể ảnh hưởng xấu đến thai nhi cần phải được phát hiện và điều trị sớm, thậm chí nếu không thể khắc phục thì cần tính đến không sinh con.
Theo Sức khỏe Đời sống