Barthes, Roland -
Lời giới thiệu của Đỗ Lai Thúy Roland Barthes (1915-1980) là một nhà phê bình văn học, nhà văn hóa học, một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái ký hiệu học Pháp. R. Barthes tốt nghiệp Đại học Sorbonne (1939). Những năm 1940-1950, ông hăng hái cộng tác với báo chí cánh tả với tư cách là một nhà phê bình văn học và người viết tiểu luận. Từ giữa thập niên năm mươi, ông làm việc ở Ban Xã hội học của Trung tâm nghiên cứu Khoa học Quốc gia. Chính vào thời gian này đã hình thành lý thuyết văn học độc đáo của Barthes. Ngay từ trong tác phẩm Độ không của lối viết (Dégré Zéro de l’ecriture – 1953), Barthes lần đầu tiên miêu tả "sự thay đổi thứ ba" của hình thức văn học. Đó là lối viết (écriture - tiếng Việt chưa tìm được từ thích ứng) cùng với hai sự thay đổi khác là ngôn ngữ và phong cách. Việc nghiên cứu những kiểu lối viết khác nhau đã dẫn Barthes tới ý tưởng: ngôn ngữ nói chung không phải là một công cụ giao tiếp trừu tượng và trung tính. Tự thân ngôn ngữ không phân biệt những mục đích của người sử dụng nó, mà chính là sự giáo dục ý thức hệ nơi cắm sâu những tư tưởng văn hóa - xã hội, hệ giá trị, khuynh hướng... Điều này đã thức nhận Barthes chú ý đến những vấn đề của ký hiệu học hàm nghĩa. Xây dựng xong bộ máy phân tích thích hợp, ông vận dụng nó vào nghiên cứu, một mặt, ý thức quần chúng thường nhật với tác phẩm Huyền thoại học (Mythologie – 1957), và mặt khác, khám phá tính toàn vẹn văn hóa – xã hội của hình thức văn học trong Tiểu luận phê bình (Essais critiques – 1963). Từ năm 1960, Barthes làm việc ở Ban xã hội học về biểu hiệu, biểu trưng và biểu tượng thuộc Trường Thực hành Nghiên cứu cao cấp. Hứng thú của ông chuyển từ những vấn đề ký hiệu văn học sang thi pháp học cấu trúc. Những năm 60-70, R. Barthes được công nhận là người đứng đầu cấu trúc luận Pháp (và sau này là nhà hậu cấu trúc). Tác phẩm Phê bình và sự thật (Critique et vérité – 1966) đóng vai trò một tuyên ngôn lý thuyết phê bình văn học, đã tập hợp được đông đảo đại diện của Phê bình Mới ở Pháp. Những năm 70, Barthes tích cực nghiên cứu vấn đề ký hiệu học liên văn bản. Tác phẩm S/Z (1970) là hình mẫu của phương pháp tiếp cận liên văn bản đối với tác phẩm văn học được hiểu như là một không gian trong đó tương tác những mẫu văn hóa khác nhau. Barthes viết S/Z dày hơn 200 trang chỉ nói về truyện vừa Sarrasine hơn 30 trang của Balzac. Sau tác phẩm này là tiểu luận Khoái lạc của văn bản (Plaisir du texte, 1973) phân tích sự cảm thụ tác phẩm văn học của độc giả. Năm 1976, R.Barthes được mời vào Pháp quốc Học viện chủ trì khoa Ký hiệu học văn học. Tập Bài giảng (Leçon, 1977) có lẽ là những phát biểu quan trọng cuối cùng của Barthes. Ở đây, ông đã tổng kết cả cuộc đời hoạt động khoa học của mình và chỉ ra viễn cảnh của phê bình văn học nhờ phương pháp cấu trúc – ký hiệu học. Barthes chết vì tai nạn xe hơi năm 1980. Đám tang ông đầy những vòng hoa trắng của bao độc giả mến mộ ông. Đọc Roland Barthes không nhiều, tôi cũng muốn rút ra một vài nhận xét (chí ít cho bản thân mình): Roland Barthes là một nhà phê bình văn học lý thuyết. Tuy không phải là lý thuyết gia có vai trò sáng tạo học thuyết mới như F.de. Saussure, R. Jakobson, M. Bakhtin, Lévi-Strauss, F. Gadamer..., nhưng với niềm say mê khoa học, Barthes luôn bắt nhịp với sự vận động của tư tưởng văn học thời đại. Ông đọc, thấu hiểu và phát triển chúng thành tư tưởng riêng của mình. Từ đó, xây dựng cho mình những phương pháp nghiên cứu cụ thể. Cũng như Picasso trong hội họa, ở mỗi phương pháp, Barthes đều đi đến cùng, đạt đến những khám phá mới, rồi lại chuyển sang phương pháp khác. Cứ như vậy, Barthes luôn luôn mới mẻ. Roland Barthes đến với văn học xuất phát từ xã hội (nhưng là xã hội học hiện đại chứ không phải là xã hội học kinh tế cổ điển như ở ta), rồi chuyển sang ký hiệu học, ký hiệu học cấu trúc, cấu trúc luận rồi hậu cấu trúc luận. Có thể nói, ông đã tự mình làm cả một cuộc phiêu lưu trong tư tưởng phê bình văn học thế kỷ 20. Và dù "xê dịch" nhiều như vậy, nhưng ông vẫn giữ được cho mình sự nhất quán, sự xuyên suốt. Đó là quan niệm về một cái đẹp sống động, một mỹ học vận động trong đời sống. Đó là một lối viết (écricture) hấp dẫn, sinh động, vừa đầy trí tuệ vừa đầy văn chương. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều tác phẩm (với chúng ta là khá "nặng đô") của Barthes được in thành "sách bỏ túi" cho những người đi nghỉ cuối tuần giết thời gian, nếu nó không tạo ra được sự Khoái lạc của văn bản. Nhưng lần này, văn bản của Barthes, chứ không phải của văn bản nhà văn. Roland Barthes đã tạo ra kiểu phê bình mới: nhà phê bình-nhà văn, nhà phê bình-người sáng tạo. Tác phẩm của R. Barthes được giới thiệu ở Việt Nam còn ít, rất ít: Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu, NXB Hội Nhà văn, 1997), Cơ sở của ký hiệu học (trích, Trịnh Bá Đĩnh dịch trong Chủ nghĩa cấu trúc và Văn học, NXB Văn học, 2002), Sự tưởng tượng của ký hiệu (Huyền Giang dịch, Văn học nước ngoài số 1/2000). Lần này, chúng tôi giới thiệu tác phẩm tiêu biểu của Roland Barthes và của ngành Tự sự học: Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể. Đây là một tác phẩm khó, nhiều khái niệm mới, thuật ngữ mới, lại chuyển ngữ từ bản tiếng Nga, nên chắc cũng không tránh khỏi sai sót. Mong bạn đọc thông cảm và chỉ bảo. |
Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể
Tác giả: Roland Barthes
Tôn Quang Cường dịch và chú thích
Dẫn nhập
Tương tự như vậy, bất kỳ tư liệu nào cũng đều bổ ích và nó sẵn sàng phó mặc các tình tiết của mình cho con người: tường thuật có thể bằng ngôn ngữ tự nhiên viết hay nói, bằng các hình tượng sinh động hay bất động, nhờ vào ngôn ngữ cử chỉ hay bằng cách tổng hợp tất cả các dạng thức nêu trên. Để trần thuật thì có thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, cổ tích, truyện ngắn, sử thi, truyện lịch sử, bi kịch, chính kịch, hài kịch, kịch câm, tranh vẽ (khi nhắc đến Urxulu Karapatro), tranh màu trên kính, điện ảnh, tranh truyện, tư liệu báo chí, hay câu chuyện thường nhật... Hơn thế, việc kể chuyện với muôn hình vạn trạng luôn tồn tại khắp nơi, mọi thời, trong mọi xã hội. Con người ta bắt đầu kể chuyện ngay từ buổi sơ khai của lịch sử loài người. Vâng! Không bao giờ và cũng chẳng ở đâu lại có tồn tại một dân tộc mà lại không biết kể chuyện. Tất thảy mọi giai cấp, các nhóm xã hội đều có những "tâm sự" riêng của mình. Nhiều khi những con người thuộc các nền văn hóa khác nhau, nếu không muốn nói là đối lập nhau, lại cùng dõi theo một câu chuyện [1]: tự sự bỏ qua mọi cách biệt giữa văn học có giá trị hay tầm thường, xé bỏ những rào cản về văn hóa, lịch sử và dân tộc, nó tồn tại trong thế giới như chính bản thân cuộc sống. Như vậy, liệu tính phổ quát của tự sự có làm mất đi hứng thú của của chúng ta chăng? Liệu có phải hiện tượng này mang tính tổng hợp đến nỗi chúng ta không còn gì để nói cụ thể hơn là đành lòng chấp nhận miêu tả một dạng cá biệt của nó như các nhà nghiên cứu lịch sử văn học vẫn thường làm? Làm thế nào để có thể chia tách các dạng đó, dựa vào đâu phân biệt và nhận diện chúng? Làm thế nào để phân biệt tiểu thuyết với truyện ngắn, truyện cổ tích với thần thoại, chính kịch với bi kịch (đúng là người ta đã nỗ lực rất nhiều) mà lại không tính đến một khuôn mẫu chung cho tất cả chúng? Bất kỳ một kiến giải nào về hình thức tự sự ngẫu nhiên nhất hay bị hạn chế về lịch sử cũng đều phỏng đoán đến sự tồn tại của khuôn mẫu này.
Điều này đã giải thích lẽ đương nhiên vì sao các nhà nghiên cứu, khởi đầu từ Aristotle, không những chẳng khước từ việc tìm hiểu các văn bản tự sự bởi tính phổ quát của hiện tượng, mà còn luôn tìm đến các vấn đề hình thức của tự sự. Cũng là lẽ đương nhiên đối với trường phái cấu trúc đang lớn mạnh khi hình thức trở thành mối quan tâm bậc nhất: trong mọi trường hợp họ chỉ xoay quanh vấn đề làm sao thâu tóm được khối lượng khổng lồ các câu chuyện bằng cách miêu tả thứ "ngôn ngữ" sản sinh ra chúng. Khi vấp phải số lượng lớn các văn bản tự sự cũng như các cách tiếp cận đa dạng (tiếp cận sử học, tâm lý học, xã hội học, dân tộc học, mỹ học v.v...), nhà nghiên cứu cũng lâm vào tình trạng như Saussure trước hiện tượng nhiều dạng của hoạt động lời nói, từ những mớ hỗn độn của thông báo lời nói ông đã chỉ ra nguyên tắc để phân loại và cơ sở để miêu tả chúng. Nếu chỉ giới hạn trong thời đại ngày nay, có thể thấy rằng chính các nhà hình thức luận Nga như Propp và Lévi-Strauss đã giúp đưa ra một song đề: hoặc văn bản tự sự không phải là cái gì khác ngoài việc thuật lại sự kiện thuần túy, khi đụng đến chúng cần các phạm trù như "nghệ thuật", "tài năng" hay "thiên bẩm" của người kể (tác giả). Chính các phạm trù này là hiện thân tưởng tượng của tính ngẫu nhiên [2]; hoặc văn bản đó cũng có chung cấu trúc như bất cứ một văn bản nào khác, có thể phân tích được cho dù việc tìm ra cấu trúc đó đòi hỏi phải nhẫn nại. Vấn đề thực ra nằm ở chỗ giữa biểu hiện phức tạp nhất của cái ngẫu nhiên với dạng thức đơn giản nhất của tổ hợp luôn tồn tại một vực sâu. Chẳng ai có thể tạo ra (sáng tác) một câu chuyện kể mà không dựa vào hệ thống ẩn của các đơn vị cơ sở và quy tắc liên kết chúng lại!
Vậy tìm cấu trúc văn bản tự sự ở đâu?
Đương nhiên là ở chính các văn bản đó. Nhưng liệu có phải trong tất thảy các văn bản... Các nhà nghiên cứu, tuy đều nghĩ rằng có sự tồn tại của cấu trúc tự sự, nhưng lại không chịu thừa nhận phân tích văn học nhất thiết phải bằng con đường khác với mô hình của các khoa học thực nghiệm. Bọn họ khăng khăng đòi áp dụng phương pháp quy nạp trong văn tường thuật (narrative), muốn tìm hiểu cấu trúc văn tự của các thể loại riêng rẽ trong một số xã hội, ở một vài thời đại để đi đến xây dựng một mô hình khái quát chung.
Đây là quan điểm tư duy lành mạnh, nhưng không tưởng. Ngay đến như ngành ngôn ngữ học nghiên cứu được cả thảy gần ba nghìn thứ tiếng cũng không thể đạt được mục đích đó. Chính vì vậy ngôn ngữ học đã hoàn toàn có lý khi chuyển thành ngành khoa học loại suy. Cũng từ lúc đó nó mới được hình thành một cách thực sự, chập chững đi tới có khả năng chỉ báo được những sự kiện chưa được giải đáp. Vậy còn thể loại văn tường thuật với hàng triệu văn bản tự sự thì sao? Bằng sức mạnh vật chất, nó kêu gọi hãy sử dụng các quá trình loại suy. Bước đầu bắt buộc phải thiết kế một khuôn hình miêu tả sơ bộ (các nhà ngôn ngữ học Mỹ gọi là "lý thuyết", sau đó phải căn cứ vào các dạng văn bản tự sự cụ thể có một phần khớp, một phần chệch ra ngoài khuôn hình này). Chỉ trên cơ sở lệch và khớp cùng một công cụ miêu tả, thể loại văn tường thuật mới có thể thâu tóm toàn bộ khối lượng lớn các văn bản này cũng như tính đa dạng về lịch sử, địa lý và văn hóa của chúng.
Như vậy, để có thể miêu tả hay phân loại số lượng vô hạn các văn bản tự sự, cần phải có một "lý thuyết" (ở nghĩa thực dụng của từ này, như đã nói ở trên). Nhiệm vụ trước tiên là cần phải ấn định và khoanh "lý thuyết" lại. Ở đây việc đưa ra lý thuyết có thể dễ dàng hơn rất nhiều nếu ngay từ đầu ta chọn một khuôn mẫu để "lý thuyết" này có thể "vay mượn" các khái niệm cơ bản cũng như các nguyên tắc. Đến giai đoạn này hoàn toàn hợp lý khi lấy mô hình của ngôn ngữ làm cơ sở phân tích cấu trúc các văn bản tự sự.
(Còn tiếp)
-----
Chú thích:
[1] Cầu lưu ý rằng điều này không hoàn toàn đúng với thi ca và văn tiểu luận bởi sự cảm thụ sẽ phụ thuộc vào trình độ văn hóa của người tiếp thụ.
[2] Đương nhiên "nghệ thuật" của người kể là có: đây chính là năng lực tạo ra các văn bản tự sự (thông báo) trên cơ sở một cấu trúc xác định (mã); nghệ thuật ở đây được hiểu trùng với khái niệm "đứt đoạn" (performation), và còn xa với quan niệm "thiên bẩm" của tác giả, theo cách cắt nghĩa của thể loại trữ tình được coi là bí ẩn không thể khám phá của nhân cách.