Theo chia sẻ, Châu nhận được nhiều người chuyển tiền tặng, đa số có ghi nội dung nhưng cũng có một số giao dịch không ghi tên, không quá 5 triệu đồng.
"Sau đó có một anh em quen biết sơ sơ, nói đã chuyển khoản tặng 3 triệu đồng nặc danh với ý định làm quen, tìm hiểu. Giờ biết em đã có bạn trai nên "hối hận", không muốn tặng số tiền đó nữa, đề nghị trả lại", Châu chia sẻ.
Cô nói không tham số tiền đó, nhưng cần bằng chứng mới trả lại, tránh việc sau đó cũng có người nói vậy và tiếp tục đòi tiền Châu. Song thanh niên này nói không có bằng chứng gì, vì "tặng tiền cho gái thì còn chụp màn hình lại làm gì".
Vậy trong trường hợp này, Châu có phải trả lại tiền cho bạn nam kia?
Giải đáp câu hỏi của bạn Châu, luật sư Vũ Tiến Vinh (Công ty luật Bảo An, Hà Nội) cho hay, để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật (không bị vô hiệu) thì cần thỏa mãn các yếu tố được quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự. Cụ thể:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Điều 457 Bộ luật này quy định về hợp đồng tặng cho tài sản. Theo đó, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Đối với động sản, hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
Theo luật sư Vinh, với tình huống của bạn Châu, không có dấu hiệu cho thấy bạn gian dối trong việc thông báo sinh nhật (thực tế đã thông báo đúng dịp sinh nhật) để người khác lầm tưởng tặng quà (tiền). Vì vậy, không có căn cứ khẳng định giao dịch vô hiệu do bị lừa dối. Đồng thời, người chuyển tiền ý thức rõ đó là quà sinh nhật tặng cho bạn chứ không phải họ chuyển nhầm mà có quyền yêu cầu người nhận hoàn trả, luật sư nêu.
Do vậy, căn cứ Điều 117, 457 nói trên, từ thời điểm tiền về tài khoản của bạn là hợp đồng tặng cho có hiệu lực. "Nói cách khác, bạn là chủ sở hữu và có quyền định đoạt số tiền đó. Người tặng cho không có quyền đòi lại", luật sư cho hay.
Tuy nhiên, luật sư đánh giá cách giải quyết của bạn Châu là phù hợp. Cô không thể trả tiền cho bất kỳ ai khi họ không có bằng chứng chuyển tiền. Bởi sau khi chuyển tiền thì thông tin chuyển khoản vẫn được lưu trong App (ứng dụng) của ngân hàng nên việc truy xuất thông tin rất đơn giản. Bên cạnh đó, người chuyển tiền cũng còn cách khác là có thể đến ngân hàng xin sao kê.
Trường hợp người chuyển cung cấp cho bạn chứng cứ về việc chuyển tiền thì trả hay không cũng là quyền của bạn.
"Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng bạn không nên sử dụng số tiền này mà nên trả lại cho họ. Việc trả lại tiền không bị ràng buộc trên phương diện pháp lý nhưng trên phương diện đạo đức thì có thể giúp bạn không bị người khác hiểu nhầm", luật sư Vinh đưa ra lời khuyên.
Hải Thư