Nguyễn Huy Thắng
Ông nội tôi mất sớm. Cha tôi lớn lên trong sự chăm sóc của bà nội, một hiền mẫu mà hình ảnh còn in đậm trong những trang nhật ký của cha tôi. Nếu như bà nội là người có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành nhân cách của cha tôi, thì đến lượt mình, cha tôi cũng dành cho bà những tình cảm tốt đẹp nhất mà tôi dám nói, khó có gì trên đời này sánh được. Một trong những biểu hiện tình cảm của ông đối với cụ được lưu lại thật cảm động qua lời đề tặng cuốn tiểu thuyết An Tư viết năm 1943, không lâu sau khi cụ qua đời: "Kính tặng hương hồn mẫu thân".
Cha tôi cũng đặc biệt gắn bó với người anh cả ở quê là bác Nguyễn Huy Ý. Bác Ý hơn cha tôi nhiều tuổi, con trai bác là anh Sa cũng gần bằng tuổi cha tôi, cha tôi coi anh Sa như em và coi bác Ý vừa như anh vừa như một bạn hiền. Những dịp giỗ tết, nếu không phải vì lý do đặc biệt, thế nào cha tôi cũng về nhà với anh, cũng như trước kia ông mong về với mẹ. Nhật ký của ông còn ghi lại, vào dịp Tết Ất Dậu 1945, đoàn thể thông báo triệu tập một cuộc hội nghị bí mật của các nhà văn "tiền tuyến". Được tin, ông không hề nghĩ đến những nguy hiểm có thể xảy đến với mình, mà chỉ băn khoăn "không được về ăn Tết ở nhà quê với anh". Một ngày tháng 7/1951, giữa những ngày khó khăn gian khổ ở Việt Bắc, cha tôi nhận được thư anh Sa báo tin giặc quây nơi bác Ý đang công tác ở huyện nhà. Ông rất lo cho bác, và tự nhận rằng "anh vào sinh ra tử hơn mình... Anh đang ở đâu trong những ngày mưa gió này? Lặn lội hay bị cầm tù? Giận giặc vô cùng".
Do hoàn cảnh gia đình, cha tôi sớm phải xa nhà. Khoảng năm cha tôi lên bảy thì ông nội tôi mất. Bà nội một thân lo gánh vác gia đình, giỏi lắm cũng chỉ chạy đủ ăn. Để cho con trai được tiếp tục học hành, bà gửi cha tôi xuống Hải Phòng ở với chị gái là bác Nguyễn Thị Cung. Bác Cung lấy chồng làm thông phán Bưu điện ở Hải Phòng, tuy không thật sung túc nhưng cũng lo được cho em ăn học. Với một người hiếu học như cha tôi, đây đương nhiên là một cơ hội giúp ông được thỏa chí tang bồng. Nhưng đến lúc ra đi, ông đã không thể cầm lòng để lại những vần thơ tê tái:
Xa quê, xa mẹ, mối sầu
Xa anh, xa chị, xiết bao là buồn
Mắt tha thiết nẻo cây vườn
Chân tê thêm một bước đường một xa
![]() |
Ngôi nhà của Nguyễn Huy Tưởng (đã được sửa sang lại) ở làng Dục Tú, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Nơi đây, trong các ngày từ 16 đến 19/7/1945, nhóm Văn hóa cứu quốc đã về làm số tạp chí Tiên phong đầu tiên. Ảnh tư liệu gia đình. |
Với cha tôi, quê hương không chỉ là hoài niệm, mà còn là cuộc sống thường nhật rất cụ thể của bà con làng xóm. Năm 1943, khi cha tôi làm công chức sở Đoan (sở thuế quan) Hà Nội, ở quê xảy ra việc viên tri phủ Từ Sơn không cấp sợi cho dân làng - làng ông có nghề dệt vải, công ăn việc làm của bà con đều trông vào nguồn sợi này. Biết chuyện, ông đã về quê làm đơn kêu cho dân làng. Gửi được đơn đi, ông thấy tinh thần nhẹ nhõm, và rất vui khi nghe tin đã có cuộc điều tra của nhà chức trách, và dân làng ông sắp được sợi. Ông coi đấy là "cái kết quả đầu tiên của sự biết trông vào thực tế" của mình. Thế rồi cha tôi tham gia cách mạng, hoạt động trong nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật. Sau Nhật đảo chính Pháp (tháng 3/1945), phong trào cách mạng dâng cao. Nhóm Văn hóa cứu quốc của ông được đoàn thể giao nhiệm vụ ra một tờ báo bí mật, lấy tên là Tiên phong. Để chuẩn bị cho số báo đầu tiên, cha tôi đã đưa các đồng chí của mình về quê họp bàn và biên tập bài vở. Ngôi nhà năm gian ở quê chúng tôi mà giờ đây vẫn còn giữ nguyên được hình hài, chính là nơi chứng kiến cha tôi cùng các đồng chí Khuất Duy Tiến, Trần Ngọc Hương, Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Nguyễn Hữu Đang bí mật vào ra với những chỉ thị của Đảng, những truyện ngắn, bài thơ, tiểu luận có nội dung tiến bộ mà các ông gom góp hoặc tự mình viết cho tờ báo...
Cách mạng, kháng chiến rồi hòa bình. Cha tôi sẽ còn nhiều lần đưa các đồng chí, bạn văn của mình về chơi quê mà ông rất đỗi tự hào. Không tự hào sao được khi làng Dục Tú quê hương ông nằm lọt giữa vùng đất cổ kính xứ Kinh Bắc, một trong những cái nôi của nền văn hóa Việt Nam, nơi phát tích những tập tục lâu đời, những truyền thuyết lịch sử, văn hóa đầy màu sắc. Trong bài tùy bút Bắc Ninh quê hương tôi viết nhân lần đầu tiên về thăm quê sau chín năm kháng chiến, cha tôi kể lại rằng ngay từ bé ông đã say sưa với những hình ảnh phi thường về Đức Thánh Gióng, "người anh hùng đầu tiên trong lịch sử, mà vó ngựa còn in lại trên những cánh đồng khô của Phúc Yên lân cận", với các giai thoại về những ông trạng lừng danh của đất Bắc Ninh văn học, "trạng Me đè trạng Ngọt", những sự tích về bà chúa Chè người Kinh Bắc bên kia sông Hồng, cách Dục Tú có một thôi đường... Nhưng có lẽ Cổ Loa mới là niềm say mê hơn cả của cha tôi. Hồi ký của nhà văn Tô Hoài, nhà thơ Hoàng Trung Thông... - những người không chỉ một lần được cha tôi mời về quê chơi - đều kể rằng, từ Dục Tú, cha tôi hay cùng các ông sang thăm Cổ Loa. Nhà văn Tô Hoài nhớ lại: "Nguyễn Huy Tưởng say sưa muốn làm cho chúng tôi thấy được bên trong làng xóm, đồng bằng hôm nay, nơi này xưa kia đã nguy nga những thành quách có một không hai ở phương Nam với bao cuộc đấu tranh của vua Hùng, của vua Thục, của Triệu Đà... Làm sao phải thấy được cả vùng những Phong Khê và Kinh Bắc xa xưa...". Những tích lũy của cha tôi về vùng đất Phong Khê lịch sử ấy, rồi đây sẽ được ông viết nên một áng văn xuôi như thơ cho thiếu nhi, truyện An Dương Vương xây thành ốc.
Nguyễn Huy Tưởng - đại biểu tỉnh Bắc Ninh |
Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra. Vậy thì, Nguyễn Huy Tưởng đã viết những gì về làng quê Dục Tú của mình? Trái với cảm nhận ban đầu, cùng với thời gian những trang viết của cha tôi về quê hương bản quán ngày càng có dịp đến với bạn đọc. Ngay từ "tác phẩm" đầu tay Cái đời tôi ông viết cho riêng mình, Nguyễn Huy Tưởng đã dành hầu như trọn vẹn những trang viết đầu đời để kể về quê hương và gia đình. Hãy nghe ông nói về làng mình khi mới mười tám tuổi: "Nó có cái mãnh lực kéo tôi về tận chỗ mạnh nhất của nó, là cái chỗ mà chúng tôi thấy nắng thì ẩn, thấy mưa thì núp, là cái chỗ tối đến chúng tôi cùng nhau lăn lóc ngủ say, bên cạnh sẽ có thầy mẹ tôi săn sóc suốt đêm, rét thì đắp chăn cho, nực thì quạt mát cho, có muỗi thì buông màn, giật mình thì ôm ấp. Chỗ đó, chẳng phải là cái nhà gianh vách đất, ở ngay giữa cái làng Dục Tú quý báu kia ư?... Nó không có tôi thì nó là vật không hồn, tôi không có nó thì tôi như con chim không tổ, con thú không hang".
Thế rồi, lần hồi, ông kể lại chuyện mình, từ khi bắt đầu ý thức được về sự chăm ẵm của mẹ đến khi biết quan sát con người và cảnh vật quê hương. Đó là cái xưởng gỗ của cha mẹ ở ngay cạnh chùa làng, bên một cây si to tướng, nơi ông cùng anh Nhị ngày ngày lên chơi với những người thợ xẻ, chạy nhảy trên những khúc gỗ vừa to vừa tròn. Đó là cảnh đêm thu trăng tỏ, nhà nào nhà nấy đóng cửa mà thi nhau đập lúa, tiếng lúa đập xuống cối đá kêu ùm ụp, cùng tiếng thóc vãi tứ tung, xen lẫn với tiếng cười nói luôn mồm; trong nhà, ông tôi kê bàn đèn vừa hút vừa nói chuyện với mấy người đập lúa ở ngoài; thỉnh thoảng, nghe chừng thấy mỏi và thấy chán tay, họ nghỉ đập vào bên bàn đèn của ông tôi, chậm rãi, dềnh dàng hút điếu thuốc lào, ăn miếng giầu, uống hớp nước[ 1]. Rồi là chuyện ông tôi cho làm cái chòi cao hóng mát, để cha tôi và cô Thứ có chỗ thoáng rộng mà chơi nghịch, vẽ vời. Cái chòi ấy thực ra cũng nhỏ thôi, "chòi lợp rơm, lát ván, tường làm bằng phên trát vôi, bệ bằng đất có sáu bậc". Ấy nhưng dưới con mắt cha tôi, người mà trong tương lai sẽ trở thành một cây bút có khuynh hướng sử thi, sự kiện cái chòi trong tuổi ấu thơ của ông bỗng có vẻ lớn lao khác thường. Khác thường ở chỗ nó liên quan đến một nhân vật khá thú vị là chú phó Cõi, người được ông tôi thuê làm chòi. Đấy là một người thợ "rất khéo léo về đường đục đẽo", sở trường nhất là nghề chữa khung cửi. Và cha tôi đã không giấu giếm niềm say mê có phần thái quá đối với nhân vật này: "Thật là không có mấy tay thợ mộc làm được những cái mộng khít như chú"; "Chú chỉ cầm cái dùi đục, xem xét qua loa, biết hỏng chỗ nào, cầm dùi gõ một cái, thế là xong, thế là khung cửi lại có thể dệt như thường mà có khi lại dễ hơn nữa"; "Giao cho chú làm việc gì, thì chú cắm đầu cắm cổ mà làm, không nghỉ một lúc nào, có khi mê mà quên cả ăn uống"... Bạn đọc yêu thích kịch Vũ Như Tô của cha tôi hẳn còn nhớ cái tên phó Cõi ông đặt cho nhân vật phó mộc, một trợ thủ đắc lực của bác cả Vũ Như Tô trong việc xây Cửu trùng đài. Nhưng qua mấy dòng trên, ta còn thấy ông đã mượn hình ảnh của chính chú thợ phó Cõi này để dựng nên những tính cách đặc trưng của nhân vật Vũ Như Tô: tài nghệ phi thường, mà cũng say mê đắm đuối đến quên mình. Ký ức về quê hương với những kỷ niệm thuở ấu thơ đã theo cha tôi ngay trong những sáng tạo đặc sắc nhất của ông.
Đến khi tham gia cách mạng, nhận rõ trách nhiệm phản ánh cuộc sống cần lao của thợ thuyền, ông cũng lại lấy vùng đất quê hương mình làm địa bàn sáng tác. Và lần này là về những người dệt vải ở ngay làng Dục Tú, trong đó có các cháu gái sống bằng nghề cửi canh của ông. Từ cuộc sống bấp bênh, cơ cực của dân làng, từ việc người dân bị đe dọa không được cấp sợi mà ông đã từng tham gia đấu tranh đòi lợi quyền, cha tôi có ý định dựng một cuốn tiểu thuyết về Những người dệt vải. Ngay trong những ngày viết đi viết lại Vũ Như Tô, ông lúc nào cũng đau đáu về cuốn tiểu thuyết này. Một ngày cuối tháng 11/1944, cha tôi lại về quê. Hôm ấy sáng trăng rất đẹp, Thiêm, đứa cháu gái xinh xắn của ông bỗng nói: "Trời đẹp thế này mà có sợi đánh ống thì đẹp biết bao". Trong liên tưởng của cha tôi, đó sẽ là cả một cảnh đẹp trong cuốn Những người dệt vải tương lai của ông. Bất chấp những khó khăn của đời sống, bất chấp nạn đói đang dìm chết mọi ý nghĩ cao xa, cha tôi vẫn miệt mài cấu tứ tác phẩm. Nhật ký ngày 7/5/1945 của ông ghi: "Bắt đầu viết Những người dệt vải. Hai giờ đêm còn cắm đầu trên giấy trắng. Viết chậm. Nhưng văn đã giản dị, nhẹ nhàng". Nhưng rồi do yêu cầu công tác, chẳng mấy lâu sau ông đã phải ngưng sáng tác này: "Những người dệt vải đọng lại. Còn nhiều công việc quá. Lại còn đọc, viết trăm thứ" (nhật ký ngày 23/5/1945). Chúng ta biết rằng, vào thời gian đó Nguyễn Huy Tưởng đang được đoàn thể giao nhiều công việc, trong đó có việc viết bài cho các báo bí mật và chuẩn bị cho tạp chí Tiên phong sắp ra như đã nói ở trên. Sau đó ông lên chiến khu dự Quốc dân đại hội Tân Trào và bản thảo Những người dệt vải bị thất lạc, không còn có cơ được viết tiếp...
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng sẽ còn nhiều dịp trở về quê với nhiều tư cách khác nhau: người đi vận động Đời sống mới, ứng cử viên và sau đó là đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh, nhưng trước hết là với tư cách một nhà văn. Trong bài tùy bút Ngày mùa ông viết nhân một ngày về thăm quê khoảng một năm sau Cách mạng thành công, ông ghi lại những hình ảnh vừa giản dị, thân quen mà cũng thật là cảm động: "Xe tôi đã qua đường nhựa, rẽ vào con đường đất quen quen. Một con khách đậu trên đỉnh một cây tháp đá xanh dựng ở đầu đường, nhàn hạ vỗ cánh bay. Một chú trâu già, đậu trên một đỉnh gò cao, cắp ngang đôi sừng đồ sộ, nhìn người lạ bằng đôi mắt chứa chan những mộng hiền lành. Ôi chim muông, đồng ruộng, người và vật và làng xóm thân yêu, ta lại về đây! Tuổi ta đã đứng, tính tình ta đã khác, nhưng ta vẫn còn nguyên vẹn lòng hồn nhiên của kẻ quê mùa! Ta chào mừng ở các ngươi và cả ở ta đây một cuộc hồi sinh vĩ đại!".
Và với tấm lòng hân hoan ấy, ông đã hòa nhập vào cuộc gặt hái của bà con: "Tôi bỏ xe bên bờ ruộng và xuống với người quen... Tôi cầm liềm, giữa những tiếng cười bốn phía; tôi gặt được mươi hàng lúa. Mộ mẹ tôi hôm nay không lạnh lẽo, trái lại, đầy một hơi ấm mà người có thừa những ngày còn sống. Tôi thấy có một sự gì êm dịu. Không để ý đến tiếng sột soạt của lưỡi liềm cắt lúa, tôi hình dung người mẹ đảm đang khi xưa, ngược xuôi buôn bán, vào sinh ra tử và làm lụng mãi cho đến giờ hấp hối..." Hẳn dưới suối vàng, bà nội tôi đã nghe được tiếng lòng của con trai mình nói với mình mà cũng là nói với mảnh đất quê hương nghèo khó mà sinh thành, đã cho một vụ mùa bội thu sau trận đói khủng khiếp: "Rơm phơi đầy trong các ngõ mấy cái làng tôi qua. Rơm làm bết bánh xe tôi. Chỉ những rơm là rơm... Nhiều gian nhà bỏ trống chất đầy một thứ rơm óng ánh như tơ... Lúa vàng làm cho tôi khuây khỏa"...
Mười năm sau, cha tôi lại có dịp về làng. Lần này, cũng lại một ngày mùa của năm 1956: "Mùa được lớn, thóc lúa reo cười, đầy tràn trong vựa, trên hè, ngoài sân. Đói bị đẩy lùi, đời no ấm mở ra rồi". Niềm vui lẽ ra đã có thể rất trọn vẹn sau những gì quân Pháp gây ra ở làng ông: "Giặc Pháp đã càn đi quét lại cái làng trước đây trù phú. Cái lô cốt dựng đầu làng làm bỡ ngỡ bước chân quen thuộc. Nó mọc lên đồng thời với sự mất đi của biết bao nhiêu kỷ niệm, nào miếu Vua Bà, nào đền Đức Thánh, nào ngôi chùa nho nhỏ bên đường, bị giặc san bằng không còn dấu vết". Những năm kháng chiến làng ông bị lập tề, dân làng cơ cực không biết sống chết thế nào, ông vẫn khắc khoải mong đến ngày chiến thắng, cuộc sống lại tưng bừng trở lại. Tiếc thay, những sai lầm trong Cải cách ruộng đất đã biến làng ông thành một thứ "thôn xóm im lìm" mà ông không thể không xót xa ghi lại trong bài tùy bút Một ngày chủ nhật: "Nhà nào sống nhà ấy, âm thầm lạnh lẽo, thiếu cái hơi nóng của họ mạc, láng giềng. Người gánh lúa gặp nhau ngoài đường cũng không niềm nở"; "Người cán bộ cải cách ít hiểu nhân tình thế thái, đã đi ngược lại những tình cảm họ hàng, làng mạc", khiến cho "cuộc sống rời rạc, thiếu cái keo sơn của tình cảm". Và ông "tự nhiên thấy tiếc cái vui vầy của tình lân lý, cái vồn vã của họ hàng, cái đon đả của bà cô, ông chú". Bài tùy bút này về sau đã gây cho ông nhiều nỗi phiền, nhưng tôi dám chắc những nỗi phiền đó cũng không thể lớn hơn được điều phiền muộn diễn ra trong lòng ông khi ấy.
Không phải kêu để mà kêu, than phiền để mà than phiền. Tình cảm quê hương với tất cả những sướng vui và buồn tủi, đớn đau và hy vọng... đã thôi thúc cha tôi tiếp tục nghĩ và viết về quê mình. Chúng ta biết rằng về cuối đời, Nguyễn Huy Tưởng thôi các công tác lãnh đạo để được chuyên tâm sáng tác. Chính trong lúc đang canh cánh việc viết lại Sống mãi với Thủ đô, sửa lại Vũ Như Tô, những tác phẩm tâm huyết nhất của ông, cha tôi đã nung nấu một đề tài mới. Ông khao khát dựng một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam "với tất cả tâm hồn, nguyện vọng, quê hương, đất tổ, đồng ruộng, đền miếu, với đám cưới, đám ma, đám rước, với những légendes (truyền thuyết), với những câu chuyện lạ lùng, kinh khủng, với đạo Khổng, đạo Phật, đạo Lão, với căn nhà, mảnh ruộng, cái áo, nồi cơm..." (nhật ký ngày 22/4/1960). Trong cuốn tiểu thuyết sử thi ấy, ông dự định sẽ lấy hình ảnh mẹ mình để xây dựng nhân vật trung tâm, và lấy khung cảnh Bắc Ninh quê hương làm nền cho những diễn biến, đổi thay của nhiều thế hệ...
Chỉ ba tháng sau, tin nhà văn Nguyễn Huy Tưởng qua đời đưa về quê hương Dục Tú. Bệnh ác đã cướp ông đi thật bất ngờ, giữa lúc bút lực đương sung mãn, để lại biết bao dự định chưa thành.
Có thể Nguyễn Huy Tưởng ra đi mà chưa viết được nhiều hơn về quê hương mình. Có thể cuộc sống bôn ba phần vì sinh kế, phần vì yêu cầu của cách mạng và kháng chiến đã khiến ông sớm thoát ly làng xóm thân yêu. Có thể dần dần, nhiều người Dục Tú cùng thời với ông, hiểu ông, đã từng gắn bó với ông, cũng lần lượt ra đi... Nhưng có hề gì, một khi những trang viết của ông vẫn còn đó và ngày càng đến được với bạn đọc rộng rãi: những trang tác phẩm và cả những trang viết riêng tư trĩu nặng những nỗi niềm về con người, năm tháng, cuộc đời. Tất cả đều chứng thực một điều rằng, tình yêu quê hương - đó là những gì sâu lắng và bền bỉ nhất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Ông người làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội...
(Nguồn: Văn Nghệ, số ra ngày 1/7/2006)
---