Nguyễn Huy Thắng -
Nguyễn Huy Tưởng đến với văn chương trước tiên là đến với thơ ca. Nếu như năm 1941 ông mới có bài tiểu luận đầu tiên đăng trên tạp chí Tri Tân - bài Hội nghị Diên Hồng, thì ngay từ năm 1933, ông đã có một chùm 6 bài thơ đăng trên Nam Phong, số 191. Và nếu như một năm sau đó (1942) ông mới bắt tay viết Đêm hội Long Trì và Vũ Như Tô, thì tập thơ Nhất điểm linh đài của ông cũng đã hoàn thành và chỉ còn việc tìm "đầu ra". Tuy nhiên, Nguyễn Huy Tưởng đã không trở thành nhà thơ như ông từng mong muốn. Dẫu sao, tác giả Vũ Như Tô hẳn phải biết ơn thi ca đã cho ông những năm tháng say sưa, bồng bột của buổi tìm đường. Cũng chính thi ca đã giúp ông nhận ra đâu là sở trường, sở đoản của mình, để cuối cùng, ông dứt khoát trở thành một cây bút văn xuôi như chúng ta biết ngày nay. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng còn ghi lại không ít những suy nghĩ về thơ và về sự làm thơ của ông. Chúng tôi xin được trích đăng một số đoạn. |
6/1/1932
Thi ca chỉ sản xuất ở phong cảnh tự nhiên của vạn vật, vì văn chương và lẽ tự nhiên của tạo hóa là nhất thể. Khoa học càng tiến bước, phong cảnh càng ít đi, người ngắm phong cảnh càng hiếm đi: văn chương là cái vật báu vô cùng, sẽ bị khoa học (tôi nói khoa học máy móc) làm cho tiêu diệt vậy.
3/3/1932
Cảm đến cái đẹp của giời, hiểu được các lẽ của đời thì tự khắc nẩy ra thơ.
11/3/1932
Người thi sĩ phải hiểu việc đời một cách sâu xa, và phải đoán sự đời một cách siêu việt.
Người thi sĩ không bao giờ được ở xa đời. Bao giờ cũng đứng làm môi giới cho loài người cùng tạo vật.
12 - 20/3/1932
Để cho thi sĩ nói về tổ quốc, mà để cho các nhà hiền triết bàn về nhân loại.
27/3/1932
![]() |
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng qua ống kính của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. |
10/4/1932
Người thi sĩ muốn xứng cái thiên chức của mình, trước hết phải có tấm lòng thanh khiết, sau phải cảm đến mọi lẽ giời đất, sau mới cần đến câu tư tưởng thâm trầm, và sau rốt là cần một câu văn sáng sủa, gọn ghẽ và êm tai.
7/9/1932
Je ne vois pas la poésie dans la réalité; je vois la poésie dans le passé, dans l"avenir et surtout dans le rêve et l'imagination. (Tôi không thấy ý thơ trong thực tại; tôi thấy ý thơ trong quá khứ, tương lai và nhất là trong ước mơ và tưởng tượng.)
13/9/1932
Khi thất tình kích thích đến ta, thì bật nẩy ra thơ. Thơ ấy có hại đến ai đâu. Đã không có hại, lại còn có lợi, vì nó tả một cái tình của một phần tử trong nhân loại.
6/11/1932
Văn là vẻ đẹp. Chương là vẻ sáng. Văn chương là vẻ sáng của giời đất đem diễn ra lời văn cẩm tú, là vẻ sáng của người ta đem diễn ra lời văn cẩm tú.
30/11/1932
Nếu Thượng Đế muốn tuyệt đoạn văn chương ta hẳn không sinh ra chữ quốc ngữ; hẳn không sinh ra quyển Kiều, Cung Oán... Đó là cái minh chứng rằng giời không muốn để ta trong vòng ngu tối, mà muốn cho ta lên chốn võ đài mà đóng góp với nhân loại. Ta không nên thối chí, nản lòng. Nên hết sức mà bồi bổ cho văn chương ta.
1/12/1932
Thơ phải gọn gàng. Một câu thơ là tóm lại mười câu văn. Câu văn cũng như hòn đá, mà thơ là cái hòn đá giũa mài chỉ còn lại cái tinh hoa sáng sủa.
26/10/1933
Tôi tưởng rằng: gọi là người thi sĩ non sông không phải rằng người ấy phải tả người, chỉ việc tả mình mà thành tả cả xã hội quốc gia, vì giời đã sinh ra thi sĩ là đã phú cho tất cả tính tình một dân tộc vậy.
Than ôi! Ta chẳng có cái trí sáng suốt của nhà bác sĩ, có cái tâm cao thượng của nhà hiền triết. Ta chỉ có cái tình u uẩn đối với nhà, với nước, với nhân loại, với Thánh Thần Phật tổ, với Ly Tao thần nữ, với Mỹ thần, thì ta nên cống hiến thân ta vào đấy: rời ra thì ta không làm nên gì cả. Hỡi Virgile(1) tiên sinh, tiên sinh là thầy của kẻ hậu sinh này. Ngu này lấy tiên sinh làm kim chỉ nam. Tiên sinh có những tư tưởng mà ngu này cảm nhiễm, cực tán dương; tiên sinh là thầy tiểu sinh đó vậy. Cái lòng ái quốc, lòng yêu nhân loại, lòng kính mộ tiền nhân, tính tình êm thấm, cái văn tiêu sái du dương, đó là cái đặc sắc của tiên sinh, đó là những điều mà ngu này lấy làm chuẩn đích vậy.
5/11/1933
Thi sĩ chỉ như con họa mi, cần cái tiếng hát trong, câu ca thánh thót, thi điệu dồi dào. Còn cái vỏ ngoài là phú quí vinh hoa thẩy đều coi như giấc mộng.
29/4/1935
Các vị danh nhân, ai cũng có sở đoản, nhưng ai cũng có ít ra là một cái sở trường. Trừ những vị thánh hiền, là những người hoàn toàn, còn ai cũng có một chỗ sở trường thôi. Như Victor Hugo là một bậc đại thi sĩ, biết bao nhiêu là tính xấu; Corneille thì rụt rè e lệ, Michel Ange thì nhu nhược, Voltaire(2) thì đố kỵ. Vậy mà đều là những bậc kỳ tài trong thiên hạ. Victor Hugo ít cảm tình mà rất nhiều cảm giác, Voltaire ít có tư tưởng cao xa mà nhiều thị kiến, Michel Ange nhu nhược mà chăm làm, Corneille rụt rè mà có khí cốt hào hùng.
Muốn đạt, chỉ cần phát triển một bề. Đem sở trường bù cho sở đoản, phát triển cái sở trường cho hoàn toàn, thì một cái sở trường của mình có thể xán lạn mà làm mờ mọi cái sở đoản.
15/10/1938
Sao ta lại ham cái giầu? Giầu rồi để làm gì? Hai tay buông xuôi, tiền dùng ích gì? Tôi vẩn vơ, và tôi chợt nghĩ đến những công cuộc văn chương mà tôi tính làm, những anh hùng ca mà tôi muốn làm để cống hiến nước Nam tôi. Tôi thấy tôi khoan khoái trong mơ màng, nó có một cái thú nhẹ nhàng đặc biệt. Làm thế nào có cái vẻ giản dị cao hùng như phái cổ điển? Ôi! Những công trình cổ điển, nó mới hoàn toàn trong cái giản dị của nó biết bao! Cái đường của những công trình ấy mới rõ rệt, và trong trẻo biết bao! Ôi du dương! Ôi tự nhiên! Virgile, Homère, Racine, Dante(3) lần lượt hiện ra trong trí tôi, ôi! những tên yêu quí! Và những bài thơ Đường tuyệt thú, những văn chương Tầu lại đến đập vào óc tôi, càng làm tôi đắm trong vực mộng.
21/11/38
Nguyễn Nhược Pháp, nhà văn sĩ trẻ tuổi mà tôi quen biết, đã tạ thế rồi! Tôi thấy rung động và thương ông đoản mệnh. Tin ông mất làm cho tôi sửng sốt, tôi thành thực tiếc cái chết của ông, nhất là vì tôi đã có dịp biết ông, và vẫn yêu cái chất phác của ông. Tôi muốn viết một quyển sách tặng hương hồn ông.
Tôi lại nghĩ dở: tôi sợ chết non như ông. Tôi cũng như ông, thẹn thò và không sống một cách sốt sắng. Phải chăng đó là tiêu biểu cho một đời không thọ?(4)
23/11/1938
Tôi không hiểu làm sao, tôi cứ đến với Racine như đến với một người bạn thiết. Giữa tôi và nhà thi sĩ ấy đã có một cái dây liên lạc vô hình, nhưng mạnh mẽ hơn keo sơn. Nội trong các thi nhân trên thế giới, Racine đã chiếm hẳn linh hồn tôi. Và mỗi khi tôi giở một quyển Văn học sử của Pháp, là tôi bắt đầu xem về Racine đã. Tôi đã làm quen với Racine từ lâu, tôi đã từng hưng khởi vì vở kịch Athalie của ông. Tôi yêu cái êm đềm của ông, nhưng tôi phục cái tài tả tâm lý và dục vọng của ông. Những vở kịch của ông nó thâm trầm, diễm lệ, lời văn chải chuốt, tôi coi như những hạt ngọc trong văn đàn. Shakespeare(5) thì tao động quá. Corneille thì khô khan (vả viết theo lối ông này dễ hơn viết theo cách Racine). Tôi chỉ riêng yêu Racine và những thi sĩ Hi Lạp như Sophocle và Eschyle(6). Racine cũng thuộc về loại này. Cái giản dị trong sự kết cấu của ông, sự phức tạp về tính tình mà ông tả, văn chương bi đát lâm ly của ông đã khiến cho tôi coi ông như là mẫu mực để bắt chước. Ôi! những vở kịch hoàn toàn! Ôi! những áng văn chương kiệt tác! Ta có mong soạn được những vở bất hủ như thế không? Quan niệm về văn chương của tôi đã giống Racine, tính tình của tôi cũng gần giống ông nữa: cho nên sự tôi yêu mến tác giả vở Athalie không lấy gì làm lạ.
22/1/1939
Mấy hôm nay, tôi có cái ám ảnh là muốn cho tập thơ của tôi ra đời(7). Tôi không thể làm những bài thơ rồi bỏ đó, tôi phải cho nó ra chào ánh sáng mặt giời. Tôi tưởng tượng như tôi là đứa trẻ đang tập tễnh đi, còn ngượng nghịu biết bao! Tôi muốn làm một bài thơ tả cái tình trạng ấy. Tôi đã nghĩ đến những người mà tôi sẽ tặng từng bài thơ một, tôi đã nghĩ đến những người mà tôi sẽ biếu sách của tôi. Khi tôi sung sướng, khi tôi sợ sệt, tôi không tin cái tài của tôi, tuy tôi biết rằng thơ của tôi cũng có chỗ hay, tuy nó không sâu sắc, không văn vẻ, không có âm điệu dồi dào. Thơ của tôi thiếu cái tinh tế (délicatesse), cái khéo, thiếu những hình ảnh, những cái đẹp, những cái văn hoa. Nhưng tôi muốn cho nó ra đời, trong khi ở nước tôi, họ đang ngâm vịnh những cái bả giã, những cái yếu hèn. Anh Phạm Ngọc Côn là người mà tôi ngỏ ý với, về cái việc tôi định xuất bản sách, khuyến khích tôi và khuyên tôi một câu rằng: "Điều thứ nhất là anh phải tự tin cái tài, cái giá trị của văn anh", cái mà tôi đang muốn có. Tôi nghiệm thấy một cách đau đớn rằng bây giờ tôi làm thơ chậm lắm, và khó nữa.
22/2/1939
Cái mạnh của câu văn, là do ở danh từ và động từ, không phải ở hình dung từ. Hình dung từ là phụ. Động từ là cái làm nổi bài văn, nó là cái máy cho xe chạy, nó có mạnh thì văn mới hay. Chính nó làm giá trị một câu, chính nó tả, chính nó nói, chính nó vẽ, chứ không phải hình dung từ. Tôi làm văn, nhưng tôi chưa trị được văn, tôi chưa sai khiến được văn, nó vẫn hung dữ với tôi như một con hổ, mà tôi chưa kiềm chế được.
Tôi đã đưa tập thơ của tôi cho Phạm Ngọc Khuê(8) xem. Anh bảo những câu thơ của tôi là pensées cristalisées (ý tưởng kết tinh), không phải là thơ. Chúng tôi có bàn về thi nhân, về những bậc tài hoa. Có lẽ trong bọn không ai muốn làm một nhà triết học, một nhà thông thái, ai cũng thích thi nhân cả. Khuê nói: "Một người thi nhân chân chính - thì nước mất một người công dân - bố mẹ mất một người con - vợ con mất trông cậy". Theo quan niệm của Khuê thì người đã gọi là tài hoa, phải là một kẻ say mê, phải có những phút ngông cuồng...
20/2/1940
Văn chương, mỹ thuật, nhất là thơ, chỉ nhận những cái đẹp, cái hay, cái sắc sảo. Cái tầm thường không thể len vào những gấm vóc ấy, nó sẽ nẩy ra ngay, như một cái đinh không giấu được. Người ta có thể chịu được cái tầm thường trong chỗ khác; không bao giờ người ta có thể chịu được nó trong văn chương, trong mỹ thuật. Văn chương, mỹ thuật có thể ghê tởm, nhưng không thể tầm thường.
12/3/1940
Xem thơ Baudelaire(9), thấy lời thơ đẹp, tư tưởng hơn người, và đầy cảm xúc. Thơ chỉ có thể hay khi mình viết bằng máu của mình. Mỗi bài thơ của Baudelaire chỉ là một trạng thái linh hồn đã từng đau khổ và đã từng sống thực. Không phải là thơ nặn bằng trí tưởng tượng nhạt nhẽo.
22/5/1941
Bài ca chính thức(10) mình làm hôm 21, kể cũng thú vị.
Nào trời non nước?
Thờ ơ vườn Chu.
Tìm cành trông hướng
Đường Nam tít mù.
Ôi non sông tre xanh
Lớp mây mù không thấy nhà
Ôi Văn Lang xa xăm
Chí ta bền với sơn hà.
Non quê cha thiêng liêng
Không bao giờ lòng quên.
Kể bài này, thực có tính cách thơ, hay thực.
30/5/1941
Nghĩ đến nàng Kiều. Phải! Nguyễn Du quả là quốc gia thi sĩ. Vô ý thức, tiên sinh đã lấy nàng làm tiêu biểu cho quốc gia. Việt Nam chẳng cũng xấu số như nàng Kiều ư? Việt Nam chẳng cũng đẹp như nàng sao? Giết chồng rồi lại lấy chồng, thực là hợp với tình cảnh Việt Nam ta lắm.
Đọc Truyện Kiều, tức là đọc một bản đàn mà nguồn hi vọng còn tràn lấn trong tâm hồn. Ta lấy Kiều là tiêu biểu cho non sông, mà nếu bói Kiều là hay, thì ta có thể tự nhủ rằng nước Việt ta không có cơ mất hẳn. Bĩ cực rồi thái lai.
15/1/1942
Phải theo Baudelaire. Văn chương cần phải lãnh đạm như cẩm thạch.
18/1/1942
Vui đi ta ơi. Việc ta làm dở từ 1939 nay đã thành. Trưa hôm nay tôi làm xong bài Đống Đa nhan là Xuân tráng sĩ(11). Lòng tôi bồng bột, tôi vui sướng như điên. Bài ca dài 80 câu và một điệp khúc 4 câu. Nó đã sáng tác trong bốn buổi: đêm 15, 16, 17 và ngày 18.
Đáng ăn mừng, vì tôi vẫn ôm mối hận là không sao làm nối được công việc bỏ dở từ 1939, từ cuối 38 thì đúng hơn.
20/3/1942
Viết thơ cần phải tượng trưng nhiều. Phải sâu xa. Gọt đẽo. Hôm qua, trời xuân nắng đẹp. Có con chim hót trong mây trên cành. Sao ta không làm chim sung sướng. Giam hãm, lo nghĩ. Định làm một bài về xuân.
Nghĩ đến những cuốn kịch của mình. Nghĩ đến những bản choeur (đồng ca) trong những kịch. Ôi say sưa khi viết nên những câu thơ cẩm tú mà người ta ca ngợi trên sân khấu trước mặt bao nhiêu khán giả!
22/5/1942
Làm bài thơ về Lê Lợi, thấy kém. Buồn man mác. Thơ của mình không có cái gì mới mẻ cả. Nhưng cũng vì bài thơ không hợp ý ấy nên nhất định viết kịch Vũ Như Tô.
2/2/1957
Đạp xe trong mưa phùn. Nói chuyện thơ Lý Bạch(12) và cái hào khí của nhà thơ. Văn nghệ có cần phải phục vụ không? Sao lại gò ép vào việc ấy? Thân với bạn, làm thơ tiễn bạn: có phục vụ chính sách nào mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu về chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này.
***
Chú thích:
(1) Virgile (70-19 TCN): nhà thơ La Mã, tác giả trường ca Enéide mà Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt yêu thích.
(2) Victor Hugo (1802-1885): nhà văn, nhà thơ và kịch tác gia Pháp; Corneille: (1606-1684); nhà thơ và kịch tác gia Pháp; Michel Ange (1475-1564): họa sĩ và nhà điêu khắc ý; Voltaire (1694-1778): nhà văn và nhà tư tưởng Pháp.
(3) Virgile: xem chú thích trên; Homère (thế kỷ 9 TCN): nhà thơ Hi Lạp cổ đại, được cho là tác giả của các sử thi Iliadevà Odyssée; Racine (1639-1699): thi sĩ và kịch tác gia Pháp mà ở những dòng nhật ký sau Nguyễn Huy Tưởng sẽ còn có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ đặc biệt; Dante (1265-1321): thi hào ý, tác giả tập thơ Thần khúc bất hủ.
(4) Nguyễn Nhược Pháp sinh năm 1914, mất năm 1938, hưởng dương 26 tuổi. Nguyễn Huy Tưởng sinh năm 1912, mất năm 1960, hưởng dương 48 tuổi.
(5) Shakespeare (1564-1616): thi sĩ và kịch tác gia Anh, tác giả vở kịch Hamlet mà theo Nguyễn Huy Tưởng thì "chắc rằng hay hơn Athalie, nhưng kém cái vẻ nhã nhặn trang nghiêm [như Athalie của Racine]".
(6) Sophocle (khoảng 496 hoặc 494-406 TCN) và Eschyle (525-456 TCN): nhà thơ và kịch tác gia Hi Lạp cổ đại.
(7) Tập thơ mà tác giả nhan đề là Nhất điểm linh đài, tập hợp những bài thơ ông làm từ cuối những năm 1930 và sẽ còn tiếp tục cho đến đầu những năm 1940.
(8) Phạm Ngọc Khuê về sau làm chủ nhiệm tạp chí Văn mới của nhóm Hàn Thuyên.
(9) Baudelaire (1821-1867): nhà thơ Pháp, được coi là người mở đầu cho trường phái tượng trưng.
(10) Bài thơ dùng làm lời cho một bài hát hướng đạo mà tác giả làm cho "bầy sói" của mình khi ông tham gia phong trào hướng đạo ở Hải Phòng; về sau được đưa vào phần đầu bài thơ Chim Việt (di cảo Nguyễn Huy Tưởng, in lần đầu tiên trong Nguyễn Huy Tưởng – văn và người, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1991).
(11) Bài thơ về sau đăng trên tạp chí Tri Tân, số 81-82 với tiêu đề Xuân chiến sĩ.
(12) Thi hào đời nhà Đường của Trung Quốc.
Nguyễn Huy Thắng biên soạn và chú giải
(Nguồn: Tạp chí Thơ, số 1/2006)