![]() |
Tác phẩm đoạt giải thưởng văn học ASEAN 2003 của nhà thơ Bằng Việt. |
- Văn học Việt Nam được đánh giá thế nào trong khu vực ASEAN, thưa ông?
- Văn học Việt Nam hầu như không được biết đến. Trong khi tác giả của các nước đi nhận giải thưởng đều in thành sách cả tiểu sử và tác phẩm của họ bằng hai thứ tiếng (một bên tiếng Anh, một bên tiếng mẹ đẻ) để dễ phổ cập tác phẩm của mình, thì các nhà văn Việt Nam chỉ mang theo một số tác phẩm bằng tiếng Việt. Đã vậy, đó lại không phải là tác phẩm hoàn chỉnh mà chỉ là vài ba đoạn trích trong một truyện ngắn, một tiểu thuyết và dăm bài thơ lẻ. Đấy là nói về số lượng tác phẩm. Còn về chất lượng bản dịch và trình độ dịch thuật của người Việt mình thì rầu lòng lắm. Ngay đến nhan đề các tập thơ của tôi cũng bị dịch sai: Bếp lửa đáng lẽ phải dịch là Household warm thì Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam lại dịch là A cooking fire, đơn thuần chỉ là "cái nồi nấu". Dịch thế làm sao toát lên được cảm giác nồng ấm, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Còn nữa, Những gương mặt - những khoảng trời thì dịch là Somes faces, some patches of the sky thay vì Human faces and pieces of sky. Và cứ word by word như thế, Ném câu thơ vào gió (Flying a verse with the wind) được hiểu theo "nghĩa đen" là Throw a poem to the wind. Dịch như thế, người ta ngơ ngác không hiểu cái tập thơ đó, tiểu thuyết đó của mình hay ở chỗ nào cũng phải.
Văn học đương đại hẩm hiu thế, cả nền văn học cổ điển và cận hiện đại đồ sộ của chúng ta còn gần như vô danh hơn... Thế nên, nhà văn Việt Nam ta sang đất Thái nhận giải thưởng văn học ASEAN thì đều trong tâm trạng một mình mình biết, một mình mình hay. Bởi ngoài sự thân tình, vui vẻ với nhau theo kiểu chủ - khách thì nước bạn không thể hiểu nổi giá trị lao động văn chương của anh đến đâu.
- Thế còn các nước Đông Nam Á, họ ứng xử với nền văn học của nước họ ra sao, thưa ông?
- Giải thưởng văn học ASEAN được lập ra từ năm 1979. Nước bạn Thái Lan đã huy động được một nguồn khá lớn những nhà tài trợ như ngân hàng Bangkok, ngân hàng xuất nhập khẩu, công ty Rex Morgan, tổ chức di sản thế giới, hãng hàng không... Tính sơ sơ, một cuộc "chơi sang" kiểu này tốn khoảng 1 tỷ rưỡi đồng Việt Nam gói gọn trong một tuần tổ chức trao giải, bao cấp toàn bộ vé máy bay đi về hạng cao cấp, ăn ở khách sạn 5 sao, tham quan du lịch mỗi ngày từ một đến hai chương trình, dăm sáu lần chiêu đãi, giao lưu, gặp gỡ, khánh tiết, in ấn tài liệu... Vậy mà người ta sẵn sàng bỏ ra để khuyến khích các nhà văn có đóng góp lớn cho văn học. Trong khi đó, nếu Hội Nhà văn Việt Nam đăng cai tổ chức, thì trong một tuần ấy sẽ ngốn hết kinh phí cả một năm của Hội, và sau đó không còn gì để hoạt động nữa! Vì mỗi kỳ Đại hội Văn học Nghệ thuật, may lắm cũng xin được tài trợ khoảng 5-10 triệu, tức là chỉ dăm sáu trăm USD (mà một cuộc tổ chức như Giải ASEAN này thì cần đến 100.000 USD).
Mặt khác, các tổ chức kiểu Penclub (Tổ chức Văn bút quốc tế) và Hội Nhà văn của Thái đều không nhận được một xu bảo trợ nào (khác hẳn Hội Nhà văn Việt Nam). Họ hoạt động tự lập và bỏ tiền túi ra xây dựng hình ảnh cho mình và đã có được một đội ngũ độc giả đông đảo. Tuy nhiên, nghề viết ở Thái Lan nói riêng và các nước Đông Nam Á nói chung cũng vẫn trong tình trạng hết sức khó khăn. Phần lớn những nhà văn được giải ASEAN năm nay đều giảng dạy ở một trường đại học hoặc có một hậu thuẫn nào đó, tỷ như nhà văn Kim Pinun (Campuchia) vừa là nhà văn vừa kiêm đạo diễn sân khấu, nhưng lại sống nhờ một beauty salon của... vợ.
- Từ "Bếp lửa", "Những gương mặt - những khoảng trời", "Đất sau mưa"... đến "Ném câu thơ vào gió", âm hưởng của Paustovski trong thơ ông đã lùi xa, nhường chỗ cho những suy tưởng triết lý theo kiểu Bertolt Brecht và Neruda, tại sao vậy?
- Theo năm tháng, sự chiêm nghiệm và từng trải không ngừng được bồi đắp. Vì vậy, cách viết cũng hàm súc, ngắn gọn hơn, đề tài phong phú hơn, cách nhìn đời cũng lý trí, tỉnh táo và giễu cợt hơn để rồi không dễ dãi khi cấu tứ một bài thơ, lựa chọn một hình ảnh. Vả lại, tôi vốn là dân học Luật. Nhờ thế mà tôi có một lối tư duy thơ khúc chiết, sáng rõ và có cảm giác liều lượng hơn chứ không lan man, tùy hứng hay hũ nút rối rắm.
- Trong tình hình thơ ca "lạm phát", in nhiều mà chủ yếu để "phân phát" chứ không bán được, thế nên, "Ném câu thơ vào gió" của ông, dù được một giải thưởng danh tiếng của khu vực nhưng cũng chả gây được tiếng vang trong nước. Ông nghĩ sao?
- Phải thừa nhận thực tế: đã có thời điểm thơ ca hoặc văn xuôi độc tôn. Còn bây giờ công chúng quay lưng với văn học vì họ có nhiều phương tiện giải trí khác hấp dẫn. Hơn nữa, đời sống nội tại của văn học, thú thật là đang xuống cấp. Người thành danh thì khó vượt qua cái bóng của mình. Người mới vào nghề thì loay hoay với những thể nghiệm mà chưa biết sẽ đến đâu.
- Vậy, với cương vị chủ tịch Hội đồng thơ (Hội Nhà văn Việt Nam), ông đánh giá thế nào về thơ trẻ, về cái gọi là "tìm tòi" và "cách tân"?
- Tuổi trẻ có những cái ngông cuồng, quá khích. Thậm chí chưa đủ trình độ hiểu biết nhưng lại cứ tỏ ra là biết tuốt và không biết kiên trì. Song, chẳng có gì đáng lo ngại bởi những tìm tòi không đến đầu đến đũa tất yếu sẽ bị đào thải. Nói đâu xa, hồi trẻ, lứa chúng tôi cũng thế. Năm 18-20 tuổi, hí hửng viết những câu thơ mà mình tự cho là hay lắm, sướng lắm. Nhưng rồi bây giờ ngẫm lại thì muốn cho những câu thơ ấy vào... sọt rác.
- Vậy, với "Ném một câu thơ vào gió thổi/Lời bay đi, tôi nhớ lại đời mình/Có lắm buồn vui, có nhiều lầm lỗi/Nhưng không có gì xảo trá, gian manh"..., ông có cho rằng mình đã thực sự "cách tân"?
- Tôi đã thể nghiệm nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tóm lại là tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới. Tôi không cho rằng Bếp lửa hay Ném câu thơ vào gió đã là những đỉnh cao của mình. Và, tôi đang có một kế hoạch cho ra hàng loạt những thể nghiệm thời gian tới. Tôi cảm thấy mình rất sung sức. Tôi tin là sẽ cống hiến cho độc giả những cách nhìn ở các dạng thức "cách tân" khác.
Bằng Việt tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh ngày 15/6/1941 ở thành phố Huế. Nguyên quán: huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Sơn Bình. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng hợp Kiev (Liên bang Xô viết) năm 1965, Bằng Việt về Việt Nam, công tác tại Viện Luật học. Năm 1969, chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn. Năm 1970, tham gia chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là phóng viên quân đội, làm Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Năm 1983, về Hội Văn nghệ Hà Nội. Hiện là Tổng thư ký Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản: - Hương cây - Bếp lửa (1968), in chung với Lưu Quang Vũ. - Những gương mặt, những khoảng trời (1973). - Đất sau mưa (1977). - Khoảng cách giữa lời (1984). - Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương. - Bếp lửa - Khoảng trời (tuyển tập, 1986). - Phía nửa mặt trăng chìm (1995). - Thơ Bằng Việt (tuyển tập, 2001). |
Hiền Hòa thực hiện