![]() |
Ông Truật đo mộ trước khi khai quật. |
Ngót hàng trăm ngôi mộ hợp chất, có xác ướp từ Bắc chí Nam được khai quật dưới tay ông, khi thì với tư cách là cán bộ phụ trách, lúc lại là một nhà khảo sát. Kỷ niệm đáng nhớ nhất của ông gắn với ngôi mộ cổ ở Mạo Khê, Quảng Ninh khai quật năm 1966. Như một quả núi đất đồ sộ, mộ được xây gạch hình vòm, chia 3 ngăn, chiều dài 12 m, ngang 3 m. Bên trong có một chậu đồng giống như trống đồng lật ngửa, trang trí hoa văn. Đáng ngạc nhiên nhất là pho tượng đồng đen to bằng người thật, vác chùy canh giữ cửa mộ. Tuy nhiên, bức tượng này đã bị thất lạc, không còn được lưu giữ ở Bảo tàng Quảng Ninh nữa.
Cuộc khai quật lớn đầu tiên của Việt Nam chính do ông cùng một vài anh em thực hiện năm 1964, tại di tích Hang Hùm, phố Bình Gia, Lạng Sơn. Họ đã phát hiện những hóa thạch đầu tiên, là di chỉ cổ sinh, có xương răng của giống vượn cổ xưa nhất Đông Nam Á. Tiếp đến, ông phụ trách khai quật khu thành Cổ Loa lần đầu tiên năm 1966-1967, phát hiện nhiều mũi tên, lưỡi cày đồng và một vườn hoa cổ đã giám định được bào tử phấn hoa có niên đại trước công nguyên. Cuộc tìm kiếm lớn thứ 3 mà ông tham dự là tại thành Luy Lâu và đào lên xác người, ngựa, mũi tên, giáo, cùng các đồ binh khí bị đốt cháy.
Ông may mắn được dự cuộc khai quật lớn đầu tiên của ngành khảo cổ nước ta tại phía Nam, thực hiện năm 1982-1984 ở Kiên Giang trên nền một ngôi chùa ẩn giấu những vết tích của văn hóa Óc Eo.
Ở tuổi cổ lai hy, dường như ông vẫn chưa chịu ngưng nghỉ. Ông bày tỏ: "Dưới lòng đất TP HCM còn ẩn chứa cả một kho tàng văn hóa mộ táng với gần 500 mộ cổ; nhiều mộ chưa biết tông tích người nằm bên dưới như ở vườn Tao Đàn, đường Nguyễn Tri Phương. Trong số mộ trên còn rất nhiều điều mà các linh hồn muốn nói, những tư liệu mà các nhà khảo cổ đang trông đợi".
(Theo Thanh Niên)