![]() |
Mô hình tái tạo lại cơn sóng thần ở Papua New Guinea, phát sinh từ một trận trượt đất. |
Đó là khi khối trầm tích khổng lồ lớn hơn 1km3 trượt xuống đáy biển, cách bờ biển Papua New Guinea 3.500 km, tiến sĩ Synolakis và cộng sự tại ĐH bang Oregon (Mỹ) cho biết.
Gần như sau khi sự kiện xảy ra, các nhà khoa học đã nhận thấy có dấu hiệu bất thường trong cơn sóng thần ở Papua New Guinea. Trước khi nó tràn tới, người ta ghi nhận được một chấn động mạnh 7 độ richter. Các trận động đất ở cấp độ tương tự vẫn thường xuyên xảy ra ở vùng này, trung bình 1 lần sau 1-2 năm, nhưng chỉ riêng năm 1998 là có kèm theo một cơn sóng lớn. Điều đó đưa đến phỏng đoán rằng động đất đã làm rung chuyển khối đất, khiến chúng lỏng lẻo hơn và trượt xuống, gây ra cơn sóng thần. Các cuộc khảo sát đáy biển cũng tìm thấy những khối đá trầm tích mới sụp xuống, chạy dài khoảng 1,6 km trên một sườn dốc 25 độ.
Điểm khác biệt nữa trong chấn động ở Papua New Guinea là nó tạo ra âm thanh sôi rì rầm ở tần số thấp, kéo dài khoảng 45 giây. Các trận động đất thông thường cũng sinh ra âm thanh tương tự, nhưng kéo dài chỉ khoảng 10 giây là tối đa. Căn cứ vào các dữ kiện, nhóm nghiên cứu kết luận, tiếng rì rầm này phát sinh từ vị trí đất sạt lở, xảy ra 13 phút sau khi động đất.
Giả thuyết cho rằng các trận trượt đất dưới nước có thể làm phát sinh những cơn sóng thần có từ cách đây hơn 1 thế kỷ. Trong những thập kỷ gần đây, giới khoa học chuyển hướng quan tâm vào những trận động đất ngoài khơi, vốn được coi là nguyên nhân của hầu hết các cơn đại hồng thủy. Nhưng sau thảm họa ở Papua New Guinea, các nhà khoa học nhận ra họ đã đánh giá quá thấp mức độ nguy hiểm của các trận trượt đất. Mục tiêu tiếp theo sẽ là xác định tần số xảy ra và cường độ của các trận trượt đất tiềm năng.
Thí nghiệm của nhóm Synolakis cho thấy, không phải lực đẩy của các khối đất trượt đã tạo nên các cơn sóng lớn. Ngược lại, các khối đất này hút nước xuống dưới, tạo ra con sóng lớn ở phía cuối mặt lưng khối đất, chạy theo hướng đối diện về phía bờ biển.
B.H. (theo NYT)