Hết năm 2011, gần 4.000 doanh nghiệp doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, góp phần cơ bản vào việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Trước đây, con số này là 12.000, đến nay cả nước chỉ còn 1.309 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước.
Năm 2011, số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa rất thấp, chỉ được 60 doanh nghiệp và thêm bốn đơn vị sau quý I/2012. Đây là những công ty theo kế hoạch phải được cổ phần hóa trong năm qua.
Theo Bộ Tài chính, có 9 nguyên nhân khiến tiến trình cổ phần hóa bị chậm như kinh tế toàn cầu và khu vực trong thời gian vừa qua nhiều biến động bất thường; thị trường chứng khoán giảm sút; chính sách tiền tệ thắt chặt và lãi suất vay vốn cao khiến lợi nhuận doanh nghiệp giảm, việc bán cổ phần gặp khó khăn; hầu hết doanh nghiệp cổ phần hóa trong thời gian này có quy mô vừa hoặc lớn còn nhiều tồn đọng về tài chính…
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho rằng, ngoài những lý do trên, còn không ít nguyên nhân chủ quan như việc lạm dụng mệnh lệnh hành chính của công ty mẹ vào đơn vị con gây mất lòng tin từ nhà đầu tư; quyền lợi nhà đầu tư nhỏ lẻ chưa được bảo đảm… cũng góp phần làm đình đốn tiến trình cổ phần hóa.
Ngoài ra, do một số cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tiễn trong tình hình mới; nhận thức của một bộ phận cán bộ các cấp, ngành và doanh nghiệp tuy đã có chuyển biến nhưng chưa có sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ. Việc tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng… tỏ ra thận trọng nên việc chuyển đổi sở hữu cũng gặp không ít khó khăn.
Theo số liệu của Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, nếu trong giai đoạn 2003-2006, cả nước cổ phần hóa được 2.649 doanh nghiệp thì bốn năm sau đó (2007-2011), số doanh nghiệp này chỉ đạt khoảng 25% kế hoạch.
Nhiều doanh nghiệp quy mô lớn không bán được cổ phần, chưa thu hút nhà đầu tư chiến lược có tiềm năng tài chính và khả năng quản trị tham gia mua cổ phần.
Một nguyên nhân nữa là thị trường hiện nay chưa hồi phục. Cầu không lớn nên doanh nghiệp đưa ra bán rất hạn chế. Năm 2011, có doanh nghiệp đưa ra bán 20% cổ phần, nhưng chỉ bán được có 3 - 10%, thông thường là không bán hết.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, vấn đề quyết định nằm ở sự chỉ đạo các bộ, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa quyết liệt trên thực tế.
Theo các phương án sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, giai đoạn từ nay đến 2015, khoảng 573 trên 692 doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% vốn sẽ thực hiện cổ phần hóa.
Trong 573 doanh nghiệp này, có 30 doanh nghiệp được nhà nước giữ trên 75% vốn điều lệ, 45 doanh nghiệp giữ trên 65%, 108 doanh nghiệp trên 50%, và 391 doanh nghiệp được nhà nước giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không giữ cổ phần. 44 doanh nghiệp còn lại giải thể, phá sản hoặc tái cơ cấu.
Như vậy, với tốc độ bình quân mỗi năm cổ phần hóa khoảng 150 doanh nghiệp, nếu không giải quyết tốt các cơ chế về đất đai, kiểm toán, thống kê, kiểm kê, xử lý tài chính, giải quyết lao động dôi dư… thì khó đẩy nhanh tốc độ.
Có thể nói, số doanh nghiệp vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa hầu hết thuộc sáu bộ và hai địa phương, gồm Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và hai thành phố là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế có quá trình tham gia chính sách và theo dõi diễn biến từ ngày đầu cho rằng, cần chọn “điểm nổ” là hình thành cơ chế cụ thể nhằm thu hút nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước, nhất là giai đoạn sau CPH.
Thông qua việc các nhà đầu tư này rót lượng vốn lớn vào doanh nghiệp cùng việc thay đổi căn bản về quản trị doanh nghiệp, nếu họ được tham gia điều hành, giám sát công ty hiệu ứng lan tỏa sẽ tác động tốt cho cả quá trình cổ phần hóa lẫn niêm yết, ông chia sẻ.
Việc cổ phần hóa gắn với niêm yết các tập đoàn, tổng công ty cần diễn ra minh bạch hơn và theo tín hiệu thị trường. Nghĩa là xem nhà đầu tư muốn vào ngành, lĩnh vực nào, thì trong điều kiện cho phép nên đáp ứng sớm đòi hỏi của họ, thay vì cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà đầu tư thiếu quan tâm.
Về cơ bản, chỉ trừ các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, dầu khí và một vài lĩnh vực đặc thù khác, các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn còn lại nên sớm cổ phần hóa để tạo cú hích về thu hút nhà đầu tư chiến lược tham gia. Thực tế, trong những năm qua, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư vào những doanh nghiệp này, nhưng không thể triển khai do tiến trình cổ phần diễn ra quá chậm.
Cũng theo ông Lê Đăng Doanh, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là việc rất khó và đặc biệt hệ trọng đối với nền kinh tế, bởi một khi thực hiện thành công sẽ có nhiều tiềm lực nền kinh tế được phát huy, đồng thời nhà nước có thêm những nguồn lực lớn để đầu tư cho nền kinh tế. Bởi vậy, từ chính phủ cho tới các bộ, UBND cấp tỉnh…đều phải đầu tư nhiều tâm sức suốt thời gian dài.
Kèm theo đó là một quyết tâm cao nếu muốn tạo bước chuyển biến rõ nét trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đây là việc đã tiến hành từ nhiều năm nay, nhưng hiệu quả lại chưa như mong đợi.
Còn theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, trong điều kiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được xem như yêu cầu bức thiết thì không có lĩnh vực nào là cấm kỵ đối với cổ phần hóa. Bà cho rằng, dệt may là ngành hoàn toàn có thể cạnh tranh bình thường, doanh nghiệp tư nhân, nước ngoài tham gia rất nhiều thì tại sao phải giữ Tập đoàn Dệt may của Nhà nước.
Nhắc lại một nguyên tắc của kinh tế thị trường, đó là Nhà nước điều hành bằng chính sách, chứ không nhất thiết phải lập ra các đơn vị để trực tiếp kinh doanh. Bởi vậy, có rất nhiều lĩnh vực về lâu dài, nhà nước không cần nắm giữ.
Ví dụ như ngành điện, với Luật điện lực đang dự kiến sửa đổi, tư tưởng thị trường hóa dần dần đã rõ thì việc duy trì một tập đoàn là không cần thiết. Dầu khí cũng vậy khi Petro Việt Nam đã chấp nhận sự tham gia của nhiều đối tác.
Khi các doanh nghiệp của Tổng công ty Điện lực (EVN) có thể cổ phần hóa thì không doanh nghiệp nào là ngoại lệ. Như vậy, vốn tốt sẽ được huy động từ nền kinh tế, chính phủ không phải bỏ tiền mà vẫn giữ được cam kết khi gia nhập WTO.
Ngoài vấn đề tài chính thì năng lực quản trị của doanh nghiệp cần được cải thiện. Khi đó, chắc chắn sẽ không còn những vụ việc như Vinashin, Vinalines… làm ăn thua lỗ gây thiệt hại cả trăm ngàn tỉ đồng cho ngân sách, bà nói thêm.
(Theo Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần)