Phạm Xuân Nguyên
Thế nào là một nhà văn Hà Nội?
Nhà văn đó có thể sinh ở Hà Nội hoặc không, có thể sống ở Hà Nội hoặc không, nhưng phải viết về Hà Nội.
Nhà văn đó viết về Hà Nội, nhưng cái viết phải có chất Hà Nội.
Chất Hà Nội là gì? Đó là chất kinh kỳ và kẻ chợ.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là một người con Hà Nội (ông sinh ở Dục Tú, Đông Anh).
Và ông là một nhà văn Hà Nội. Đối với ông, cái đất kẻ chợ và kinh kỳ ấy là một niềm tự hào, một lòng luyến tiếc, một nỗi xót xa, một sự đau đớn.
Nguyễn Huy Tưởng yêu Hà Nội với đầy niềm tự hào và luyến tiếc lịch sử. Kịch Vũ Như Tô ông viết năm 1943 có nhiều tầng ý nghĩa, nhưng có một ý nghĩa nổi bật mà tác giả không giấu giếm: nỗi buồn vì Cửu trùng đài không được xây dựng. Không có Cửu trùng đài, Thăng Long mất đi một vẻ đẹp kỳ vĩ, đủ để biến nó "thành nơi kinh kỳ lộng lẫy nhất trần gian" như lời Đan Thiềm nói với Vũ Như Tô. Nguyễn Huy Tưởng không biết "Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?", và tuy ông tự hỏi "Đài cửu trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc" nhưng có thể thấy ông tiếc, vì ngay sau câu hỏi ấy là một câu so bì: "Tháp người Hời nguyên là giống Angkor!".
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Ảnh tư liệu. |
Trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã có những trang bàn luận sâu xa về Thăng Long - Hà Nội ở cảnh bữa tiệc sinh nhật của Tân với bốn người khách bất chợt được mời vào giữa lúc Pháp sắp nổ súng gây chiến. Một người là thầy giáo (Trần Văn), một người là học sinh (Vũ Minh), một người là nhạc sĩ (Thu Phong), một người là thợ ảnh (Benla). Một cuộc gặp gỡ lạ lùng của các nhân vật nhưng là một trường đoạn tiểu thuyết được nhà văn dựng lên để thể hiện tình yêu và những suy tư về Hà Nội của ông. Câu chuyện của năm người xoay quanh cuộc chiến sắp nổ ra và số phận của Hà Nội trong khói lửa chiến tranh đã đưa ra một cách nhìn, một thái độ như vừa yêu vừa giận của Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội. Trả lời câu hỏi của Thu Phong nếu Pháp nổ súng mà người Hà Nội không dứt điểm được chúng trong một đêm thì sao, Vũ Minh hùng hồn:
- Thì thiêu đốt kinh thành ra tro. Thành La Mã đẹp là thế mà thằng bạo chúa Neron còn đốt trong một trận điên cuồng kia mà. Huống chi là cái thành phố cổ lỗ này, xấu xỉ và bẩn thỉu, vá víu và lai căng, bé bằng cái hổng mũi, trơ trẽn như một con đĩ, cái thành phố đầy những cai Công, cai Mơ, những J. Dod, Kính què, những mụ cai đen, những mụ bé Tý, những đốc Sao, những Trịnh Thục Oanh, những Cả Vê, Hai Cua, còn gì nữa cái thành phố ấy, thì để làm gì mà không đốt nó đi để mà xây dựng một cái mới.
Trần Văn cãi lại:
- Hà Nội có chín trăm năm lịch sử. Ông nên nhớ cái vinh quang của Thăng Long, Đông Đô. Nó còn lâu đời hơn cái Paris lộng lẫy kia.
Vũ Minh:
- Vì Paris lộng lẫy nên thằng Pháp không đánh đã hàng. Hà Nội xấu xí cho nên ta đốt nó đi và cùng với nó đốt luôn cả thằng Pháp. Để xem dân tộc Pháp anh hùng hay dân tộc Việt Nam anh hùng. Vậy thì nâng cốc vì Tổ quốc, vì Cụ Hồ, vì thắng lợi, vì sự tàn phá của Hà Nội. Không nên để Hà Nội làm gì. Hà Nội xấu, Hà Nội ô nhục...
Trần Văn:
- Chúng ta không nên nói thế.
Vũ Minh:
- Xin lỗi ông, đau lòng đấy, nhưng là sự thật. Hà Nội xấu lắm. Hà Nội không có Acropole, không có Arc de Triomphe, không có Saint Pierre. Hà Nội nhục lắm. Đến cả cái đền Bạch Mã Hàng Buồm, thờ ông thành hoàng của chúng ta, mà cái tượng Mã Viện vẫn còn sờ sờ, vẫn có người lễ bái. Phát khóc lên được.
Trần Văn:
- Hà Nội không xấu đâu, ông ạ. Hà Nội thiếu lâu đài, nhưng không thiếu cảnh. Các cụ ngày xưa chả nói Hà Nội là đất của năm núi, hai mươi tám đảo, của Thăng Long đại bát cảnh đấy ư? Ở trên thế giới đâu có Hồ Gươm, Hồ Tây ở giữa thủ đô. Ở đâu có con sông nước đỏ chảy qua? Ta đừng trách Hà Nội mà trách những kẻ làm xấu, làm hại Hà Nội. Và Hà Nội cũng không nhục đâu, ông ạ. Nó có Đống Đa, có Đông Kinh nghĩa thục. Muốn hay không muốn, nó vẫn là Thủ đô toàn quốc. [ 1]
Cảnh bữa tiệc này là những trang viết tôi thích nhất trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng. Các phát ngôn của nhân vật ở đây chất chứa lòng yêu, niềm tự hào và nỗi buồn đau của Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội, đất kinh kỳ - kẻ chợ. Ông vẫn tiếc Hà Nội không to đẹp với những lâu đài tráng lệ. Ông tự hào với quá khứ lịch sử của Hà Nội ở những giá trị tinh thần. Và ông lo lắng thấy Hà Nội bị xâm phạm cả xác và hồn bởi kẻ thù ngoại quốc, và bởi cả những người không biết yêu Hà Nội. Nhưng ông tin Hà Nội không chết, nước Việt không mất, vì mãi còn trong máu người Thăng Long, người dân Việt khí thế Diên Hồng. Hồn nước từ nơi hội tụ khí thiêng sông núi này luôn bừng thức mỗi lần non sông bị đặt trước nguy cơ tồn vong đến từ ngoại bang. Tiếng các cụ bô lão đời Trần hô "Quyết đánh!" trong điện Diên Hồng năm 1284 vọng đến tai chàng trai Nguyễn Huy Tưởng 29 tuổi năm 1941 giữa Hà Nội "như một nhời cảnh báo, hơn nữa, như một nhời đe dọa" kẻ thù.
"Người ta chỉ biết ca tụng cái chiến công oanh liệt là Bạch Đằng. Nhưng không ai biết rằng trận Bạch Đằng không lạ; mà hội nghị Diên Hồng mới lạ, Bạch Đằng chỉ là cái kết quả tất nhiên của cuộc hội nghị có tính cách hoàn toàn dân chủ kia" [ 2], đó là nhận thức sâu sắc có ngay từ hồi còn trẻ của Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội, về đất nước. Nhận thức này sẽ xuyên suốt các trang viết của ông: những con người bình thường, những người dân bình thường chính là những người làm nên lịch sử, không ai được phép chà đạp và lãng quên họ.
Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng sau ngày tiếp quản thủ đô (10/1954) càng bộc lộ rõ niềm trăn trở đau đáu của nhà văn đối với cảnh và người Hà Nội. Kháng chiến chống Pháp thành công, Hà Nội hòa bình bắt tay kiến thiết xây dựng cuộc sống mới, nhưng ngay từ rất sớm, từ những ngày đầu về lại thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã buồn và đau cho Hà Nội khi người chiến thắng đã có những biểu hiện thái độ thô thiển và thô bạo đối với vùng đất ngàn năm văn vật.
Ngày 8/6/1956 ông ghi: "Đi với Chế Lan Viên. Hồ Gươm lặng thầm. Chung quanh đèn điện mờ mờ. Thành phố không vui. Có cái tự hào của chủ nhân, nhưng không có cái say sưa, cái gọi là chắp cánh. Cảm thấy không có cái vui tươi. Một màu xám". [ 3]
Ngày 25/9/1956 ông ghi nhật ký: "Hồ Hoàn Kiếm khuya. Ngọc (Trịnh Hữu) nói: Ở đâu phải đẹp đấy. Đáng nhẽ hai năm (sau giải phóng) phải đẹp lắm rồi. Nhưng xấu thêm. Ước ao bên hồ có nhiều chỗ giồng hoa, có những chuồng chim lạ, cá lạ. Trẻ em tung tăng bên hồ vui sướng biết bao. Chán phè với những hòm rác, những bảng trưng bày hình ảnh các nước bạn, nó làm xấu hồ đi, và chỉ là nơi muỗi ở, xấu mắt và ngượng quá cho Thủ Đô." [ 4]
Nhật ký ngày 10/4/1959 Nguyễn Huy Tưởng ghi lại ý kiến của Nguyễn Tuân góp ý cho ông về kịch bản phim Lũy hoa nói về Hà Nội mùa đông 1946: "Ngoài việc chiến đấu, phải gợi lên cảnh Hà Nội. Cảnh Hà Nội thật nên thơ, thật cổ kính, của một thời kỳ đã qua. Nhưng rồi sắp hết trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải ghi lại những hình ảnh của Hà Nội, về người, về cảnh, về phố phường. Vì nó sắp mất. Mà nó sẽ có tác dụng ở trong nước. Ở ngoài nước. Ở Varsovie. Ở Khmer, khi đồng bào miền Nam tới xem: có thể có người khóc". [ 5] Và Nguyễn Huy Tưởng cho biết thâm tâm ông đồng ý với lời khuyên của Nguyễn Tuân cả về việc tập trung cho kịch bản này, cả về việc trong kịch bản có chú trọng ghi lại những cảnh sắc Hà Nội. Bây giờ đọc lại những dòng ghi của ông, sau nửa thế kỷ, ta cảm nghe được nỗi lòng nhà văn Hà Nội ở Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân sâu nặng và day dứt biết bao. Con mắt và tấm lòng nhà văn ở họ như đã dự báo và nhắc nhở cho những ai có liên quan đến Thăng Long - Hà Nội.
Chính Hà Nội ấy, Hà Nội mang chứa trong mình Thăng Long lịch sử, Hà Nội sau tám năm tạm chiếm đón người chiến thắng trở về, Hà Nội trở mình thay đổi theo một định hướng mới, đã phơi bày những cái chưa được của người tiếp quản và làm chủ Hà Nội, rộng ra là làm chủ đất nước. Nguyễn Huy Tưởng nhìn Hà Nội những ngày sau 1954 như nhìn một con người, một con người văn hóa, và đòi hỏi cho Hà Nội phải được trân trọng và đối xử như một con người văn hóa. Ông bực bội, ông tức giận tất cả những cái gì áp đặt, choàng phủ lên thành phố thủ đô làm nó méo mó, xấu xí, khô cằn, kệch cỡm, xa lạ.
Bài ký "Một ngày chủ nhật" (11/1956) chuyển tải những ý nghĩ, suy tư dằn vặt, lo âu của nhà văn trước thời cuộc trong nước và thế giới hồi bấy giờ, và không thể tách rời với những quang cảnh Hà Nội mà ông thấy chướng tai gai mắt.
Đoạn nhật ký ngày 25/9/1956 nêu trên sẽ được ông viết dài ra trong bài ký này: "Tôi đi một vòng quanh hồ, mong tìm ở đây một chút khuây khoả. Tôi vốn yêu hồ vì cảnh đẹp, và cũng vì nó mang dấu vết của người anh hùng yêu nước mà trước đây tôi đã có ý ngợi ca. Nhưng Hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng về, bày vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh các nước bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín, và bé lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi. Bàn tay cách mạng tới đâu là phải sửa sang, tô điểm thêm đến đấy. Hoàn cảnh hoà bình, thời kỳ kiến thiết đòi hỏi không được luộm thuộm. Nghĩ tới những đồng chí có trách nhiệm ở đây, vừa giận mà cũng vừa cảm thông. Không nghi ngờ gì cái ý tốt muốn phục vụ, muốn sửa sang, muốn đổi mới. Nhưng cái khổ là không biết cách làm. Bận túi bụi, chẳng cái gì làm đến nơi đến chốn...". [ 6]
Từ thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng phóng chiếu cái nghĩ về lịch sử và cái nhìn vào hiện tại của công cuộc kiến thiết đất nước, ông thấy ra nhiều sự bất cập, sai lầm. Ông báo động một cách khẩn thiết: "Chúng ta muốn đổi mới cho mau đến nỗi chúng ta muốn bỏ hết. Đến cả tên của nhiều làng, rất Việt Nam mà cũng rất thi vị, người cán bộ cũng bỏ đi, thay bằng những danh từ mang tính chất tuyên truyền chính trị. Không phân biệt được làng nào với làng nào với những tên đồng loạt: Tiến bộ, Hạnh phúc, Quyết tâm, Quyết tiến... rất ít âm hưởng trong lòng người. Có nơi còn rục rịch thay những tên xóm nôm na bằng những con số! Những niên hiệu các triều đại ghi trên hoành phi, câu đối của một ngôi đình cổ kính bị xóa đi bằng vôi trắng. Trên mặt tấm hoành phi treo giữa một ngôi chùa gần Hà Nội, người ta dán lên khẩu hiệu: Đảng Lao động Việt Nam muôn năm. Các đồng chí có biết không? Trong khi các đồng chí làm những việc kỳ dị ấy, thì Đảng lo khôi phục chùa Một Cột, kéo lại chuông lên gác chùa Keo! Hình như nhiều cán bộ quan niệm rằng cách mạng là xóa bỏ tất cả cái gì là quá khứ, là di tích, coi là phong kiến tất. Đừng đi quá nữa. Cuộc đời không phải chỉ có cách mạng, mà còn có lịch sử, còn có cái âm vang truyền qua các thời đại, những cái bây giờ tưởng là không dùng nữa, nhưng không có thì cuộc đời trở thành trơ trẽn, lạnh lùng...".
Tôi muốn đọc to lên những dòng viết này của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ hơn năm mươi năm trước vào chính lúc này, giữa những ngày kỷ niệm Thăng Long - Hà Nội ngàn năm tuổi. Bài ký "Một ngày chủ nhật" đã khiến nhà văn bị lao đao vì bị quy kết về tư tưởng, nhất là ông khi đó đã và đang là một yếu nhân của giới văn học. Nhưng "Người là thật, phải thật với người", Nguyễn Huy Tưởng không thể dối lòng mình với nhân dân, với Hà Nội, với đất nước. Và ông đúng! Những điều ông lo lắng, cả lo sợ nữa, trước cái cách hành xử thô thiển và thô bạo đối với văn hóa Hà Nội, văn hóa Việt Nam cho đến nay vẫn còn, và còn không ít. Người ta đã thay tên gọi sân vận động Hàng Đẫy bằng "sân vận động Hà Nội", ga Hàng Cỏ bằng "ga Hà Nội" từ hàng chục năm rồi. Trong dịp nghìn năm này, quan sát hành trình kỷ niệm thành phố, ta thấy có hai quá trình song song ngược nhau diễn ra. Một mặt tìm ra được chứng tích, dấu tích gì của ngàn năm trước thì mừng rỡ. Mặt khác, những dấu vết thời gian đang tích tụ hiện nay thì lại bị xóa đi. Cái nghìn xưa và cái nghìn sau như đang nhôm nhoam giữa Hà Nội nay.
"Mỗi lần đau, anh lại đến Tây Hồ/ Chữa lành anh là hoa súng tím", đó là Chế Lan Viên. Còn Nguyễn Huy Tưởng, ông đem cả tâm tư lòng mình soi vào Hồ Gươm. Những di tích quanh hồ im lặng, những cây xanh trầm lặng, mặt nước hồ xanh lặng lẽ, đối với ông, là chứng nhân của Thăng Long xưa, Hà Nội nay, là nơi kiểm nghiệm những thay đổi thời thế. Đó là chốn đưa lại sự yên tĩnh và tự tin cho ông khi trải qua những cơn sóng gió trong tâm tưởng. Hồ Gươm xấu xí, bẩn thỉu, ông buồn. Hồ Gươm vắng bóng trai thanh gái lịch, vắng bóng những sắc màu tươi vui, ông buồn. Hồ Gươm cô quạnh những cán bộ miền Nam tập kết, ông đau. Hồ Gươm có điện sáng đêm, ông vui. Hồ Gươm với những bóng hình phụ nữ dạo quanh trên bức sơn mài của Nguyễn Sáng bị mất vì họa sĩ không có gỗ vẽ đã phải phá đi tấm tranh làm rồi, ông tiếc (Nhật ký ngày 29/12/1959).
Từ Hồ Gươm, Nguyễn Huy Tưởng yêu và xót Hà Nội. Nhà văn ngắm Hồ Gươm qua con mắt của người thầy giáo Trần Văn trước khi cuộc chiến nổ ra: "Lá rụng trên vai anh. Gió lạnh của Hồ Gươm phả vào mặt anh, làm cho anh dịu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông rủ những mành thấp thoáng như sương. Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay vài tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm. Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hòa bình, không thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác, không bao giờ rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát, cũng không xào xạc như mọi khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong tổ. Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc đang gặp khó khăn, và lắng xuống lo âu". [ 7]
Đoạn văn tả này cho thấy nỗi niềm xao động của nhân vật và tác giả đối với thủ đô và đất nước ở những khúc quanh, bước ngoặt, điểm dừng. Đó là một khúc trữ tình trong bản hùng ca Hà Nội lũy hoa.
Nguyễn Huy Tưởng vĩnh biệt Hà Nội khi thành phố thủ đô vào tuổi chín trăm năm mươi. Ông đã viết nhiều về Thăng Long - Hà Nội, nhưng hình như điều sâu xa nhất ông vẫn chưa nói hết, nói trọn, nói xong. Ông ra đi, mang theo tất cả những trăn trở và ước vọng của một người con Hà Nội, một con người Hà Nội và một nhà văn Hà Nội cho xứ kinh kỳ - kẻ chợ đẹp hơn lên, văn hóa hơn lên, phong phú hơn lên, cả trên mặt đất và trong hồn người. Tưởng như bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay, và ngày mai, vẫn khiến ông xúc động và lo lắng, dù đã tan vào cõi thinh không nửa thế kỷ nay. Và những con chữ trên trang viết của ông về Hà Nội, cho Hà Nội, vì Hà Nội đọc lên dịp nghìn năm Thăng Long vẫn thấy động cựa, xôn xao. Trên tất cả, Nguyễn Huy Tưởng yêu Hà Nội, yêu những con người biết/dám sống và chết cho Hà Nội.
"Cái đất khốn khổ này cần chúng ta hiểu thêm để yêu thêm", ông đã nói vậy.
Hà Nội 9/9/2010