Đỗ Lai Thúy -
Bóng ơi mời bóng vào nhà,
Ngọn đèn khơi tỏ, đôi ta cùng ngồi .
Ngồi đây ta nói sự đời
Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe.
- Tản Đà -
Vấn đề là đi tìm cái thống nhất đằng sau cái mâu thuẫn ấy. Đọc Cung oán ngâm khúc, xưa nay, các nhà nghiên cứu đều nói nhiều đến hai mâu thuẫn: một, giữa tác giả và nhân vật, hai, giữa cuộc đời Nguyễn Gia Thiều và triết lý sống của ông.
Cung oán ngâm khúc nói về cuộc đời một cung nữ, từng được vua yêu chiều khi mới vào cung, sau bị chán bỏ, sống trong tâm trạng buồn khổ, oán hận, song vẫn không nguôi thoi thóp một hy vọng... Nguyễn Gia Thiều đã cực tả tài năng và sắc đẹp của nàng. Điều ấy không lạ, nhưng người ta quá ngán cái đứa trẻ đành hanh lại để cho một cô gái khuê phòng đang choai choai uống rượu giỏi hơn cả Lưu Linh và triết lý về cuộc đời già như ông Bành tổ. Thế là người ta phê phán Nguyễn Gia Thiều đã bỏ vai nhắc vở nhảy ra sân khấu cướp diễn đàn, tạo thành một "hạt sạn" khó nuốt cho Cung oán ngâm khúc. Ở đây, hẳn các nhà phản ánh luận quên mất đặc trưng ước lệ của thơ trung đại và thể loại ngâm khúc. Cung oán ngâm khúc vốn nằm ở trong thể tài cung oán thi của văn học trung đại Việt Nam và Trung Hoa. Thi nhân mượn đời cung nữ để nói đời mình, "Tài tử với giai nhân nợ sẵn" là vậy. Cô gái kia không chỉ là sự thác lời của Nguyễn Gia Thiều, nên ông không cần vì người cung nữ, một phân thân của ông, mà hy sinh chính bản thân mình. Vả lại, làm như vậy không chứng tỏ Nguyễn Gia Thiều kém tài, trái lại về mặt tâm lý ông còn hơn cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm. Ông dám vượt qua phép "biện chứng tâm hồn" của thứ tâm lý học mặt phẳng để đến với những phi lý của tâm lý học các bề sâu. Hơn nữa, ngâm khúc vẫn là thơ trữ tình, chưa phải là một loại chuyện kể. Bởi vậy, cái hạn sạn kia, từ một góc nhìn khác, biết đâu lại chẳng như hạt cát dính vào da thịt con trai biển để kết nên viên ngọc?
Điều mà Nguyễn Gia Thiều muốn mượn mồm cung nữ là nỗi sầu nhân thế và triết lý bi quan của mình. Đến đây, các nhà phản ánh luận lại thắc mắc, ở đâu ra cái nhìn chán đời ấy trong cái con người già đời sống trong nhung lụa ở phủ Chúa? Phải chăng đó là thói không đau mà rên của đám ăn không ngồi rồi? Ở đây, họ, những nhà phản ánh luận, cũng lại quên mất rằng, thi nhân, xưa nay, vốn là kẻ khóc mướn thương vay, không chỉ sáng tạo trên cái tiểu sử xã hội của mình, mà, chủ yếu, trên cái phận người phổ quát. Nếu, may hoặc không may, cái phận phổ quát ấy lại ứng với người sáng tạo, thì sự rung động kép sẽ tạo nên sự cộng hưởng nghệ thuật. Tác phẩm có cơ neo được trên dòng nước bạc của thời gian.
Là một người thuộc tầng lớp quý tộc, chứ không phải nho sĩ thư lại, từ nhỏ Nguyễn Gia Thiều đã sống trong phủ Chúa, được tận hưởng vinh hoa phú quý. Lệ thường, sự thụ hưởng vật chất đến no đủ, thừa mứa dễ trở thành chán ngán, thấy cuộc sống vật chất là vô nghĩa, muốn đi tìm một đời sống tinh thần. Nhất là với Nguyễn Gia Thiều, một người có nhiều tài năng: âm nhạc, hội họa, kiến trúc.[3] Hơn nữa, Nguyễn Gia Thiều lại xuất thân là quan võ, thuộc đẳng cấp quan binh, một tầng lớp trong lịch sử Việt Nam chỉ xuất hiện và giữ vai trò quan trọng thời Lê - Trịnh, do sự suy tàn của đẳng cấp nho sĩ thư lại. Nguyễn Gia Thiều đến với đạo Phật bấy giờ đang hưng thịnh trở lại để tìm một triết lý sống tưởng cũng là tất nhiên. Ông đã nhìn thấy tính chất hư vô của cuộc đời. Cô đơn. Người nghệ sĩ - triết gia này bèn lấy hoàn cảnh người cung nữ -một nhân vật văn chương quen thuộc và, có thể, một con người thực không lạ lẫm với Nguyễn Gia Thiều - để trình bày những suy tưởng triết học của mình.
Người cung nữ, bởi vậy, chỉ là cái bóng của Nguyễn Gia Thiều. Trong cô đơn ông tự dặt ra để đối thoại. Nhà thơ Nga Lermontov, khi dịch một bài thơ của Heine nói về một cây thông giống {đực} ở phương bắc mơ về một cây cọ { giống cái } ở phương Nam ấm áp, đã chuyển cây cọ thành cây sồi {cũng giống đực}, biến bài thơ tình thành một bài thơ nói về sự cô đơn. Cô đơn đến mức phải phân thân ra thành một đối tưởng để mà mơ tưởng. Người thiếu phụ Nam Xương trong nỗi lòng chinh phụ cũng đã chỉ bóng mình để nói chuyện với con. Gần đây nhất, thi sĩ Tản Đà trong cô đơn cũng đốt đèn lên nói chuyện với bóng... Thế giới của Nguyễn Gia Thiều tràn ngập những bóng: bóng dương {bóng người đàn ông, nhà vua}: "Cái đêm hôm ấy hôm gì, Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng", "Bóng dương bên ấy đứng trông bên này", bóng thỏ (mặt trăng): "chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ"; bóng đèn: "Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh" "Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u"; bóng nguyệt: "Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc", bóng bội hoàn {đồ trang sức bằng vàng ngọc }: "Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh"; bóng huỳnh {đom đóm}: "Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh, Vách sương nghi ngút đèn xanh lờ mờ"; bóng câu {bóng ngựa, bóng thời gian}: "Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi, Những hương sầu phấn tủi bao xong"; bóng râm: "Hang sâu chút hé mặt trời lại râm"; chiếc bóng {chỉ người cung nữ}: "Trong cung quế âm thầm chiếc bóng, Đêm năm canh trông ngóng lần lần"; bào ảnh {bóng nước, bóng sáng }: "Sóng cồn cửa bể nhấp nhô, Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh"; nhân ảnh {bóng người}: "Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương", "Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"... Một thế giới chập chùng bóng. Bóng của Nguyễn Gia Thiều đổ vào tác phẩm là người cung nữ; những chiếc bóng của người cung nữ; bóng của những sự vật, đồ vật soi chiếu vào nhau; bóng lồng bóng, bóng của bóng, bóng bội nhân như trong chiếc nhà kính vạn gương, tạo ra một ý niệm trùng phức về cái bóng. Đó là chưa kể đến thi ảnh của bóng, cũng là một thứ bóng. Có thể nói, trong Cung oán ngâm khúc cái bóng là lăng kính của Nguyễn Gia Thiều, cái nhìn nghệ thuật của ông.
Để hình thành chiếc bóng, cần có ba yếu tố: nguồn sáng, hình và nền. Trong Cung oán ngâm khúc, nguồn sáng là ngọn lửa, sinh khí của tác phẩm, hình là con người và những vật thể của thế giới khách quan, thế giới thực, nền là những vật thể có mặt phẳng, là không gian nghệ của tác phẩm.
Nguồn sáng trong Cung oán ngâm khúc là những ngọn lửa. Ngọn lửa cung cấp ánh sáng và nhiệt độ. ở đây, ngọn lửa phong phú và đa dạng đến mức có thể làm một "loại hình học" về ngọn lửa. Có ngọn lửa bên ngoài và ngọn lửa bên trong. Ngọn lửa bên ngoài lại có thể chia thành hai loại: ngọn lửa tự nhiên và ngọn lửa nhân tạo. Ngọn lửa tự nhiên trước hết là mặt trời {"Hang sâu chút hé mặt trời lại râm"}, ánh nắng {"Vườn thượng uyển hoa cười với nắng", "Góc vườn giãi nắng cầm bông hoa đào"}, mặt trăng {"Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ", " Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang", "Cảnh hoa lạc nguyệt minh dường ấy"...}, lửa đom đóm { "Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh"... Những ngọn lửa tự nhiên này xuất hiện không phải ở thời điểm huy hoàng rực rỡ, mà ở giai đoạn suy tàn, khi nó đã đi gần hết một chu kỳ phát sáng. Đó là lúc mặt trời xế tây {"Lửa hoàng hôn như cháy tấm son", " Quán thu phong đứng rũ tà huy"}, còn mặt trăng, thì mọc ban ngày, nhợt nhạt {"Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ"}, hoặc trăng lu trăng mờ, trăng tàn nguyệt {"Cảnh hoa lạc nguyệt minh dường ấy"}, hoặc trăng mùa thu tỏa ra một thứ hàn quang, ánh sáng lạnh {"Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang"}, ánh đom đóm cũng là ánh sáng lạnh của chất lân tinh. Tóm lại, ngọn lửa tự nhiên xuất hiện vào lúc ngày chưa hết và đêm chưa đến, mặt trời chưa lặn mà mặt trăng đã mọc, nên ánh sáng yếu ớt. Đó là không gian hàm hồ. Bóng xuất hiện không rõ rệt, nhạt nhòa. Chúng tan biến vào nhau, nhòe nhoẹt hình thù...
Trong khung cảnh đó thì ngọn lửa nhân tạo càng thảm hại hơn: đèn {"vách sương nghi ngút đèn xanh mờ mờ", "Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u", "Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ, Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn"}, đuốc {"Đuốc vương giả trí công là thế, chẳng soi cho đến khóe âm nhai"}, lửa hương {Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn"}. Nói chung, nguồn sáng nhân tạo ở đây cũng rất yếu ớt: đèn xanh mờ mờ, bóng đèn thâm u, hương hả thì cháy kém, đuốc thì không soi nổi một khoé âm nhai...
Ngọn lửa nhân tạo được nhắc đến nhiều nhất là đèn. Đèn ở đây có thể là đèn dầu lạc, hoặc đèn cầy, tức ngọn nến. Nếu tạo ra một quầng sáng hạn chế. Nến là đốt mình ra thành lửa. Lửa càng cháy thì thân thể nến càng ngắn dần đưa ngọn lửa đến chỗ tàn lụi. Ngọn lửa nến làm ta nhớ đến ngọn lửa lòng của người cung nữ. Đó là ngọn lửa của lòng yêu đời. Người cung nữ trước khi nhập cung tin tưởng rằng tài sắc của mình sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Sau khi giấc mơ thành hiện thực thì ngọn lửa yêu đời đó chuyển thành nỗi đam mê tình yêu và dục vọng. Ngọn lửa tình yêu bùng cháy mãnh liệt tạo ra một sức lan toả {ánh sáng và nhiệt độ} rất lớn làm cho Cung oán ngâm khúc vốn thấm đẫm một thứ triết lý diệt dục, lại có những câu thơ ám ảnh sắc dục nhất trong văn học Việt Nam {"Cái đêm hôm ấy hôm gì? Bóng dương lồng bóng đồ mi chập chùng, Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ, Đoá hải đường thức ngủ xuân tiêu"...}. Lửa dục vọng là thứ lửa đốt cháy. Bởi vậy, khác với tình trạng đun nóng, làm sôi sục lên của vật thể lỏng, cơ thể người phụ nữ ở đây bị đốt cháy, tự đốt cháy mình đến cùng cho đến khi thiêu rụi hết chỉ còn tro than. Nhiều lúc không chịu đựng nổi nàng muốn lấy nước, lấy triết lý diệt dục của Phật giáo để dập tắt tình trạng đó: Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên. Ngọn lửa lòng của người cung nữ càng cháy mạnh mà không được đáp ứng, thoả mãn, thì hình hài của nàng càng bị hao mòn: Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu. Nhưng, trò đời, khác với những thứ lửa khác, "lửa tâm càng dập càng nồng"...
Như vậy, trong Cung oán ngâm khúc, ngọn lửa bên trong và ngọn lửa bên ngoài đối lập nhau. Trong khi lửa thiên nhiên và lửa nhân tạo tàn tụi, làm cho bóng loãng tan và biến mất vào đêm đen, thì lửa lòng càng cháy tỏ. Như ngọn nến trong lòng đèn kéo quân soi sáng và làm sinh động những hình thù ở vách đêm, ngọn tâm hỏa trong người cung nữ vừa làm nổi bật vừa tiêu hao hình nàng.
Hình là thế giới hiện thực khách quan, thế giới của vật thể, mà trước hết là thân xác người cung nữ: Trộm nhớ thủa gây hình tạo hoá, Vẻ phù du một đoá khoe tươi. Đòi những kẻ thiên ma bách chiết, Hình thì còn bụng chết đòi nau. Thế giới vật thể, cũng như hình hài con người, đều bị chi phối bởi sức mạnh tàn phai:
Hình mộc thạch vàng kim ố cổ
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong
Mộc - chỉ các loại cây nói chung, thạch chỉ các loại đá, ở đây là núi: cây núi là vũ trụ vô tri; cầm - chỉ các loại biết bay trên mặt đất, mặt nước và bầu trời, ngư chỉ các loài biết bơi dưới nước: chim cá là vũ trụ hữu tri. Cả hai loại vũ trụ này đều bị phôi phai, tàn lụi.
Cho nên :
- Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
- Tiêu điều nhân sự đã xong
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.
Lệ thường, hình nhờ có nguồn sáng mà tạo ra bóng. Hình chi phối bóng. Hình bóng có liên quan như vậy nên người ta có tìm hiểu qua bóng. Tìm hiểu người cung nữ qua bóng của nàng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong những thế giới bất bình thường, thế giới bị đảo ngược, ở đó chiếc bóng có một sự tồn tại độc lập. Đó là thế giới của Cung oán ngâm khúc, thế giới của một tâm tình buồn quạnh vắng trong một lề lối sinh họat mỏi mòn, rũ rượi.
Yếu tố cuối cùng để tạo ra bóng, bóng của người cung nữ, sau khi đã có nguồn sáng và hình, là nền . Cái bóng chỉ xuất hiện và họat động trên một cái nền nào đó. Trong Cung oán ngâm khúc, cái nền này trước hết là bức tường, bức vách: "Bên tường thấp thoàng bóng huỳnh", "Vách sương nghi ngút đèn xanh mờ mờ ...". Những chiều cô đơn này ngồi một mình một bóng bất động trên vách. Những đêm cô đơn này thơ thẩn trong phòng, bóng nàng vật vờ trên vách {"Đêm năm canh lần nương vách quế"}. Vách như tấm gương phản chiếu vào tâm hồn nàng: Chả thế mà mở đầu Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đã viết: "Trải vách quế gió vàng hiu hắt"!
Một cái nền khác, mang tính không gian ba chiều, như màn ảnh nổi, là hậu cung nơi nàng cung nữ đang sông như một chiếc bóng: Trong cung quế âm thầm chiếc bóng! Đây là không gian giam nhốt nàng. Hình ảnh thâm cung trong tâm trí nàng là hình ảnh của một chiếc hang, - nấm mồ {hang sâu, âm nhai} nơi ít có ánh sáng mặt trời soi đến, nơi có ít ánh lửa mang lại nguồn sống cho nàng: Thâm cung cũng là biểu tượng nội tâm của người cung nữ. Một cõi lòng u uẩn và nhiều khát khao, nhưng cũng ít được người khác biết đến, hoặc có biết thì cũng làm lơ:
- Hang sâu chút hé mặt trời lại râm.
- Đuốc vương giả chí công là thế
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.
Cho nên đây là một không gian cô đơn, vắng lặng và lạnh lẽo :
- Thâm khuê lặng ngắt như tờ
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.
- Huống chi cũng lạm phần son phấn
Luống năm năm chực phận buồng không..
- Ai ngờ tiếng dế ran ri rỉ
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.
Không gian của gian phòng, của thâm cung được phóng chiếu vào không gian vũ trụ, tạo thành một cái nền lớn cho bóng họat động. Đó là nền trời tà huy, là không gian lúc tranh tối tranh sáng .Và sau đó là đêm, lúc không gian vũ trụ nhập vào không gian riêng tư của nhân vật: vũ trụ thu lại trong quầng sáng của ngọn đèn và nàng còn lại một mình với bóng.
(Còn nữa)
(c) eVăn 2004
Các bài viết khác của Đỗ Lai Thúy:
Phê bình văn học là gì?
Phân tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam
___________________
Chú thích:
[1] Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu, tức ngày 22 tháng 3 năm 1741, mất ngày 9 tháng Năm Mậu Ngọ tức 22 tháng 6 năm 1798, thọ 57 tuổi ,quê ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là thôn Liễu Ngạn,Thuận Thành, Bắc Ninh .
Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu một võ quan mà thông kinh sử được phong tước công. Thân sinh là Nguyễn Gia Ngô ,cũng là một võ quan ,được phong tước hầu. Ông là người học rộng ,sành thơ quốc âm, tính tình phóng khoáng ,giao du rộng. Ông là người có nhiều con. Bốn người con đầu của Nguyễn Gia Ngô đều giỏi văn, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai {tức Nguyễn Gia Thiều}, Kỷ Trai {Nguyễn Gia Cơ}, Hoà Trai {Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai {Nguyễn Gia Chu}.
[2] Nguyễn Gia Thiều, theo Nguyễn Lộc, có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học và triết học. Ngoài ra, ông còn tinh thông nhiều môn nghệ thuật khác nữa. Chẳng hạn như về âm nhạc là tác giả của Sơn trung âm và Sở điện từ ,về hội hoạ có bức tranh lớn Tống sơn đồ ,vvề kiến trúc ông trông coi việc trang hoàng phủ Chúa và xây tháp trên chùa Tiên tích... Tiếc rằng những công trình ngệ thuật ấy đến nay không còn lưu lại. Ngay cả hàng ngàn bài thơ chữ Hán của ông trong hai tập Ôn như thi tập cũng chẳng còn. Thơ nôm chỉ còn lại hai bài là Cảnh trong vườn và Miếng tình.
- Lởm chởm gừng vài khóm
Lơ thơ tỏi mấy hàng
Vẻ chi tèo teo cảnh
Thế mà cũng tang thương.
- Khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào .
Miếng tình nghẹn lắm biết làm sao.
Muốn kêu một tiếng cho to lắm,
Rằng ối ai ôi, nó thế nào