Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.
Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.
Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.
Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.
Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.
Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.
"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.
Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.
Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".
Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".
Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồn, Hồ, Tiếng núi, Xứ tuyết, Bồ công anh.
Quế Chi