Năm nay, cận kề tuổi 70, song khuôn mặt ông không một nếp nhăn. Hai bàn tay to lớn, bợt bạt như khẳng định về cái nghiệp sông nước mà ông “trót” phải mang.
Ông kể, ngày nhỏ, nhà vốn gần sông nên ông rất thích bơi lội cùng bè cùng bạn. Cha mẹ càng cấm đoán, cậu bé Tỵ ngày ấy càng tỏ ra có tài sông nước, lặn ngụp như rái cá. Năm 13 tuổi, Nguyễn Văn Tỵ giành chức vô địch giải bơi lội toàn tỉnh. Đến năm 14 tuổi ông đã cứu được người chết đuối trên dòng Lô Giang.
“Sau này trải qua nhiều nghề khác nhau, nhưng dường như cái nghiệp sông nước cứ đeo bám tôi như thể tôi sinh ra đã thuộc về nó”, ông Tỵ kể. Hầu như bất cứ khi nào gặp người chết đuối hay nghe tiếng kêu cứu, ông đều lao nhanh xuống dòng nước mà không tính toán xem mình được gì mất gì, dù dòng nước khi ấy lặng lẽ trôi hay ngầu đục trong mùa mưa lũ.
“Thời gian ấy người dân đến đây nhờ cứu người thân đông lắm. Họ kêu khóc thảm thiết khiến người đi đường nhiều khi tưởng nhầm nhà tôi có đám”, ông Tỵ cho biết.
Có người hỏi cứu người chết đuối là đi ngược lại quy định bất thành văn của dân vạn chài, liệu có sợ bị họ oán, ông lắc đầu: “Dân vạn chài họ còn nhiều điều kiêng kị mê tín lắm. Hầu như không bao giờ họ cứu người chết đuối. Tôi giống như người phá cái quy tắc ấy và không rõ từ bao giờ tôi lại có ý định tập hợp anh em vạn chài lại thành một đội tình nguyện cứu người trên sông Lô”.
Dịp may đã đến khi ông được kết nạp vào Hội chữ thập đỏ của tỉnh nhờ thành tích cứu người. Và năm 1989, Đội cấp cứu Chữ thập đỏ Sông Lô ra đời với 34 thành viên, mà ông làm đội trưởng.
Cứu đuối, nghề nguy hiểm!
Tuyên Quang nằm ở khu vực miền núi phía Bắc, địa hình sông nước hiểm trở, nhiều sông nước, thác ghềnh, hằng năm phải chịu từ 2 đến 3 trận lũ lớn. Đó là chưa kể đến hàng loạt những trận lũ nhỏ như lũ ống, lũ quét, lũ tiểu mãn, sạt lở đất... khiến số người chết vì sông nước rất khó thống kê.
Ông Tỵ từng tham gia lớp tập huấn chuyên gia quân đội cứu đuối của Hoàng gia Australia, trở thành chuyên gia cứu đuối có đẳng cấp quốc tế và là tình nguyện viên nhân đạo đứng thứ 13 trong tổng số 105 tình nguyện viên đại diện cho 178 quốc gia tham dự. Ông cũng chính là tác giả cuốn sách “Hướng dẫn tập huấn phòng, chống giảm nhẹ thiên tai” được Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thông qua và xuất bản rộng rãi trong cả nước. |
Nhớ lại những ngày đầu thành lập, ông Tỵ không giấu được vẻ tự hào. Đội hoạt động gần như từ hai bàn tay trắng, phải trưng dụng cả những vật “kiếm cơm” của anh em vạn chài như thuyền, bè, lưới... để làm việc. Sau đó, được Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam cho vay 2.000 USD (tương đương với khoảng 26 triệu đồng Việt Nam tính theo tỷ giá đồng ngoại tệ lúc bấy giờ), ông cùng đồng đội mua sắm thuyền gỗ, phao cứu sinh, dụng cụ mò lặn...
Tiếng tăm của Đội cấp cứu Sông Lô nổi như cồn. Ông Tỵ đã cùng đồng đội mò lặn ở hầu hết các khúc sông chảy qua tỉnh, trong đó có những vụ rất thảm khốc, như vụ đắm đò chết 11 người ở hòn Đụn, vụ lật thuyền chết 6 người ở bến Cham (Chiêm Hoá)... Ông kể: “Đau lòng nhất là những vụ đắm đò. Mỗi lần anh em trong đội mò lặn được xác một người là trên bờ người thân lại nhao đến nhận diện, không phải người nhà mình lại gục xuống, ánh mắt nhìn mình vừa như hàm ơn, vừa như trách móc”.
Đối với những người làm nghề như ông Tỵ thì đáng sợ nhất vẫn là những lần phải mò lặn những xác người đã “nằm sông” 13-14 ngày, khi trục vớt được thì tử thi có khi đã phân huỷ hoàn toàn. Ông phải cùng anh em trong đội rửa ráy rồi đưa về tận nhà an táng, khâm liệm. “Sau mỗi lần như vậy, có khi anh em chúng tôi phải bỏ bữa 2-3 ngày vì... ám ảnh”.
Khi được hỏi về lần cứu đuối nguy hiểm nhất, ông trầm giọng: “Lần ấy tôi trực tiếp lặn tìm hai mẹ con bị rơi xuống sông do thuyền bè quá chật. Khi lặn tìm đứa con, không để ý nên dây dẫn ôxy bị kẹt vào khe đá lúc nào không biết, đến khi thấy khó thở, ngực đau buốt muốn nổ tung, được anh em kéo lên thì tôi đã bất tỉnh, phải đưa vào viện cấp cứu... Còn chuyện viêm phổi hay đụng đầu vào đá do nước quá đục, hay định hướng nhầm mà đáy tàu bè thẳng tiến là chuyện thường ngày ở huyện đối với anh em chúng tôi”.
Ông tâm sự: “Tôi luôn tâm niệm công việc mà mình làm là công việc nhân đạo, chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện nên sức mình còn làm được đến đâu thì gắng làm đến đấy. Nghĩa tử là nghĩa tận, tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bỏ nghề nguy hiểm này để nhận lấy cuộc sống an toàn cho riêng mình cả “.
(Theo Gia đình và Xã hội)