Tiến sĩ Nikolai Dorozhkin, viện sĩ Viện hàn lâm khoa học vũ trụ Nga, cho biết từ giữa thập niên 1950, giáo sư Johannes Kilstra của Đại học Leyden (Đức) đã đưa ra một giả thuyết khá hấp dẫn. Theo ông, bởi quá trình trao đổi khí cả trong phổi lẫn trong mang đều diễn ra tương tự nhau, nên con người có thể sống dưới nước với điều kiện trong nước có khí ôxy hoà tan ở hàm lượng cần thiết. Năm 1959, Kilstra làm thí nghiệm dìm chuột vào dung dịch bão hoà ôxy dưới áp suất 3,5 atmosphere. Thật kỳ lạ: lũ chuột sống được trong môi trường đặc biệt này đến hàng chục giờ liền và tỏ ra khá linh hoạt.
Thông tin về sự kiện này gây sự chú ý đặc biệt đối với hải quân Mỹ và thế là người Mỹ bắt tay thử nghiệm với con người. Đầu thập niên 1960, trên báo chí Mỹ xuất hiện những thông tin nửa úp nửa mở rằng hải quân Mỹ dường như đã thành công trong việc "chế tạo" người cá. Theo những bài báo ấy thì một người đàn ông tên Francis Falaychick đã được phẫu thuật cuống họng, lắp một ống nhựa thay cho khí quản và người ta bơm theo ống này vào phổi anh ta một loại dung dịch đặc biệt, sau đó thả anh ta vào nước. Các báo cho biết Falaychick sống được dưới nước mấy giờ liền.
Theo tiến sĩ Nikolai Dorozhkin, một thí nghiệm tương tự cũng được thực hiện ở Liên Xô đầu thập niên 1980. Một bệnh nhân nọ do một tình trạng bệnh lý nào đó nên các bác sĩ phải cắt bỏ yết hầu. Vấn đề ở chỗ cơ thể con người được tạo hóa ban cho khả năng phản ứng với nước: chỉ cần một lượng nước rất nhỏ - một giọt thôi - chạm vào các tế bào rất nhạy cảm trên niêm mạc phế quản, lập tức cơ vòng co thắt lại, siết chặt vùng họng, gây ngạt thở và con người sẽ chết ngạt sau vài phút nếu tình trạng trên không được giải toả. Nhưng bệnh nhân nói trên đã bị cắt yết hầu nên không còn cơ vòng nữa, vì thế rất phù hợp để tiến hành thí nghiệm. Qua đường phế quản, người ta bơm trực tiếp dung dịch cần thiết vào phổi anh ta, sau đó anh ta có thể trầm mình hàng tiếng đồng hồ trong nước. Đến khi nồng độ ôxy trong dung dịch phổi đã "nhạt", các bác sĩ lại hút dung dịch cũ ra, bơm dung dịch mới vào và thế là người thực hiện thí nghiệm lại có thể lặn xuống nước cho đến khi nhạt dung dịch. Người này cho biết cả hai quá trình bơm và hút dung dịch đều không hề gây đau đớn. Như vậy, nhiều nhà khoa học đã lạc quan cho rằng con người có thể sống dưới nước nhiều giờ liền nếu được loại bỏ cơ vòng yết hầu và bơm dung dịch cần thiết vào phổi; thậm chí người ta có thể tiến tới việc kéo dài thời gian sống dưới nước bằng cách tự thay dung dịch ở dưới nước mà không cần phải lên khỏi mặt nước.
Nhưng dù sao thì như thế cũng không phải là con người sử dụng nguồn ôxy tự nhiên trong nước như cá. Một số nhà khoa học có cái nhìn khác thì cho rằng việc sử dụng dung dịch bão hoà ôxy cơ bản cũng giống như dùng bình khí nén, chỉ khác ở chỗ khỏi đeo bình lích kích mà thôi. Quả thực, điều mà mọi người trông đợi là việc con người có thể hô hấp dưới nước bằng mang như mang cá cơ. Chưa ai dám khẳng định chuyện ấy sẽ xảy ra trong tương lai gần.
Kinh nghiệm của thợ mò ngọc trai
Để chế tạo người cá, trước hết phải giải quyết một vấn đề quan trọng là làm sao buộc được cơ thể người hoạt động tốt trong môi trường nước tương tự các loài có vú thuỷ sinh như cá voi, cá heo, hải cẩu... Ông Jacques Mayole, một thợ lặn nổi tiếng người Pháp, đã bỏ ra hàng chục năm trời để tìm kiếm phương pháp giúp con người tiết kiệm ôxy khi lặn xuống nước. Trước hết, ông tiến hành kiểm tra y khoa đối với những người dân vùng núi cao Peru, vốn thường xuyên sống trong điều kiện thiếu ôxy (ở độ cao càng lớn, mật độ không khí càng loãng). Sau đó, ông lại khảo sát các thợ lặn chuyên mò ngọc trai ở vùng biển Thái Bình Dương. "Dĩ nhiên con người có cấu trúc giải phẫu học hoàn toàn khác với các loài có vú thuỷ sinh" - Jacques Mayole giải thích. Tuy vậy, con người lại có những khả năng tiềm ẩn, nếu được khai mở thì có thể phát huy công lực rất hiệu quả. Chắc chắn trong những nơi sâu kín nào đó trong cơ thể chúng ta vẫn lưu giữ những mối liên hệ với "quá khứ thuỷ sinh" - môi trường sống đầu tiên của các giống động vật. Tóm lại, trong hành trạng gene của con người vẫn còn "sót lại" một vài đặc tính nào đó của lớp cá. Chẳng hạn, khi con người rơi vào hoàn cảnh môi trường áp suất cao, cơ thể lập tức phản ứng bằng một cơ chế được gọi là "phản ứng độ sâu": toàn bộ lượng máu trong cơ thể tập trung dồn vào nuôi tim, não và phổi, bỏ qua những phần khác "ít quan trọng hơn". Nếu so sánh, chúng ta sẽ thấy trong trường hợp này, cơ thể người chuyển sang một chế độ hoạt động đặc biệt, rất tương đồng với cách sống của loài có vú thuỷ sinh: tiết kiệm tối đa ôxy nuôi dưỡng cơ thể.
Nền văn minh nơi đáy biển
Một câu hỏi được đặt ra: "Liệu con người có cần thiết phải sống dưới đáy biển hay không?". Dĩ nhiên, toàn bộ loài người thì không cần, nhưng nếu có được một số người có khả năng bơi lặn như cá thì quá tốt cho công tác nghiên cứu đại dương, thăm dò, trục vớt tàu đắm, khảo sát địa chất đáy biển... Cũng có nhiều ý kiến phản đối những cố gắng "chế tạo" người cá vì cho rằng nếu người cá bị sử dụng vào mục đích xấu, hậu quả sẽ khôn lường. Tuy vậy, số đông vẫn cho rằng rất nên có một đội người cá để nghiên cứu cuộc sống dưới đáy đại dương. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng táo bạo về một nền văn minh dưới nước tồn tại ngay trên hành tinh của chúng ta là nhà khoa học Mỹ Ivan Sanderson. Ông nói: "Hướng về một nền văn minh khác, chúng ta cứ mải miết đi tìm kiếm ở những nơi xa xôi nào đó trong khoảng không vô tận của vũ trụ mà không chịu tìm ở nơi rất gần là đáy đại dương vĩ đại của trái đất". Sanderson phần nào có lý, nếu chúng ta xem xét một số cứ liệu sau:
Năm 1982, trong một đợt phối hợp huấn luyện người nhái biệt kích của quân khu Tây Siberi và quân khu ngoại Baikal diễn ra ở hồ Baikal, khi ở độ sâu tương đối lớn, khoảng 50 mét, những người nhái bỗng nhìn thấy một số con vật có tay chân như người nhưng dài khoảng 3 mét, đầu tròn như đeo mũ lặn, bơi lặn rất linh hoạt với tốc độ cao. Chỉ vì muốn tiếp cận, bắt giữ những người cá này mà một tiểu đội người nhái đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình.
Sự việc trên đây có thể khó tin vì còn có sự "vênh" giữa lời kể của các nhân chứng và các văn bản chính thức. Nhưng một số hiện tượng khiến con người phải liên tưởng đến một sự sống có tri giác dưới đáy biển được ghi nhận ở nhiều nơi và bởi nhiều thủ thủy đoàn thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Chẳng hạn năm 1973, tại vùng eo biển Malacca, trong đêm tối, thuỷ thủ đoàn của tàu Makarenko (Liên Xô) nhìn thấy một vòng tròn phát sáng từ dưới đáy biển, đường kính khoảng vài chục mét, xoay tròn theo chiều kim đồng hồ. Năm 1983, hiện tượng tương tự cũng được ghi nhận ở vùng biển vịnh Ba Tư, bởi thuỷ thủ tàu Serbino của Nam Tư. Trong vòng hai thập niên gần đây, hiện tượng "ánh xe phát sáng từ dưới đáy biển" được ghi nhận ở nhiều nơi như vùng biển đảo Kuril, biển Andaman, vịnh Thái Lan, vịnh Bengal và quanh quần đảo Indonesia.
Những hiện tượng kể trên đã trở thành căn cứ để người ta tin vào một nền văn minh hay ít ra là một sự sống có tri thức dưới đáy biển. Chính điều đó lại càng thôi thúc con người quyết tâm "tự thân" chinh phục đáy biển. Nhưng nếu thật tỉnh táo để nhìn nhận vấn đề thì còn phải rất lâu nữa, con người mới có thể bơi lặn như cá để khám phá tầng sâu đáy nước. Mà cũng có thể không bao giờ...
Thế Giới Giới (theo Komsomolskaya Pravda)