- Giáo sư thường xuyên giảng dạy đội tuyển Olympic toán của VN mà trong đó Ngô Bảo Châu là một thành viên. Bây giờ, Ngô Bảo Châu đã là tên tuổi lớn của toán học VN và thế giới. Giáo sư lý giải như thế nào về “hiện tượng Ngô Bảo Châu”?
- Tôi dạy một số buổi ở đội tuyển của Ngô Bảo Châu trước khi lên đường đi thi Olympic toán quốc tế khi Châu còn học phổ thông. Đó là một người tài năng xuất chúng, một người đặc biệt kiên trì, có ý chí vô cùng lớn, dám dấn thân, đặt cả sự nghiệp của mình vào toán học. Từ khi làm luận án tiến sĩ đến nay, Ngô Bảo Châu không thay đổi mục tiêu lớn đã đặt ra từ đầu, mặc dù đó là một đề bài vô cùng khó.
Ngô Bảo Châu có một phẩm chất xứng đáng là nhà khoa học, sự tự tin, và anh may mắn được làm việc tại một trung tâm toán học lớn, có đủ điều kiện để theo đuổi đam mê toán học. Và chính ở đây, với những yếu tố hội đủ, xác suất đã xảy ra! Nếu không hội đủ các yếu tố trên, rất khó có “hiện tượng Ngô Bảo Châu”!
- Ông đánh giá thế nào về giải thưởng Fields dành cho các nhà toán học trẻ dưới 40 tuổi?
Giáo sư Hà Huy Khoái. Ảnh: Sài Gòn Tiếp Thị.
- Giải thưởng là vinh dự mà không nhiều quốc gia đạt được. Một đất nước có truyền thống như Đức, cũng chỉ mới một lần. Trung Quốc, là một quốc gia mạnh về toán, cũng chưa từng có. Thế mà VN có Ngô Bảo Châu giành được, thật không tưởng tượng nổi. Giải thưởng Fields chỉ trao cho các nhà toán học xuất sắc dưới 40 tuổi, đây là độ tuổi người làm khoa học có thể có được những ý tưởng xuất sắc nhất, cách mạng nhất.
- Giáo sư lý giải thế nào về việc những năm qua, ngoài dịp học sinh VN đi thi Olympic toán có thành tích cao được nhiều người biết đến, còn ngành toán trong nước nói chung trầm lắng?
- Tôi có lần đã ví toán học cần cho cuộc sống như không khí. Người ta sinh ra đã sống trong không khí nhưng lại phát hiện ra nó rất muộn, dùng nó mà lại không nhận ra nó. Toán học trong đời sống cũng vậy. Ảnh hưởng bề ngoài của toán học đối với xã hội, không chỉ ở VN mà cả ở trên thế giới, không lớn hơn so với các lĩnh vực bề nổi khác. Số người biết đến Ngô Bảo Châu chắc sẽ ít hơn số người biết đến cầu thủ Lê Công Vinh hay ca sĩ Hồ Ngọc Hà… Đổi lại là chúng tôi được làm việc mình thích, cho nên nếu có “hy sinh” cho toán học thì cũng là sự công bằng.
Ai đã đi theo toán học thì phải từ bỏ giàu sang, quyền lực và sự nổi tiếng. Có thể nói, từ khi bước vào cơ chế thị trường cho đến gần đây, với chủ trương “tự sống”, các ngành khoa học cơ bản trong đó có ngành toán gặp rất nhiều khó khăn. Đây là lĩnh vực cần thiết có sự đầu tư lâu dài. May là một hai năm lại đây, khoa học cơ bản trong đó có ngành toán được xã hội và nhà nước chú ý hơn một chút…
- Ông nhìn nhận thế nào khi nhà toán học Ngô Bảo Châu hằng năm vẫn về nước dạy, được trả lương mức cao nhất 5 triệu đồng/tháng, chỉ bằng một ngày lương đi dạy ở nước ngoài?
- Nghề toán cũng như lĩnh vực khoa học cơ bản nói chung đều nghèo, rất khó khăn cho thế hệ trẻ để họ có thể kiên định đi theo con đường này. Nhất là khi nhìn ra bên ngoài, thấy có nhiều ngành nghề khác dễ giàu hơn… Trong nước thì vậy, với những sinh viên du học nước ngoài, cũng không chỉ ít về nước làm việc mà còn không dám đi theo nghề toán.
Tuy nhiên hiện nay, ở viện Toán, có khá nhiều bạn trẻ say mê toán. So với những người trẻ, chưa chắc họ đã thuận lợi hơn vì thế hệ chúng tôi yên tâm say mê toán học hơn họ. So với các khoa toán ở các trường, lực lượng ở viện khoảng 100 người là không nhiều lắm, nhưng là chủ chốt trong cộng đồng toán trong nước, có đóng góp đáng kể: có nhiều công trình nghiên cứu, chiếm khoảng 50% số bài đăng trên các tạp chí toán quốc tế có uy tín…
Mỗi năm có khoảng 150 -200 người bảo vệ luận án tiến sĩ toán tại viện. Với nhiều người Việt làm ngành toán ở nước ngoài, hàng năm vẫn về nước tham gia đào tạo, tìm học bổng… nhằm giúp ngành toán trong nước phát triển một cách tự phát, chủ yếu là với nhiệt tình cá nhân. Trong khi đó, nhà nước vẫn chưa có chính sách thu hút nhân tài thực sự hiệu quả. Tôi hy vọng trường hợp Ngô Bảo Châu, anh vẫn đi về đó thôi, vấn đề quan trọng là mở ra một thay đổi đột phá trong chính sách, tạo môi trường nghiên cứu khoa học một cách tự do của nhà nước. Phải nói rằng Ngô Bảo Châu đã làm cho các nhà lãnh đạo nhận ra vấn đề quan trọng về nguồn nhân lực cho các ngành khoa học cơ bản trong nước một cách rõ rệt hơn.
- Sự kiện Ngô Bảo Châu tác động thế nào đến ngành toán học tại thời điểm này, thưa giáo sư?
- Để cải thiện tình hình đời sống toán học trong nước, phải nói thẳng là viện Toán không đủ khả năng ngoài việc cố gắng nâng cao chất lượng nghiên cứu, đào tạo và đó là lý do tồn tại của viện 40 năm qua. Nhưng, từ năm 2007, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, viện Toán, hội Toán và một số trường đại học đã xây dựng chương trình phát triển toán học trong 10 năm (2011-2020) với những mục tiêu phát triển toàn diện, đòi hỏi đầu tư tương đối lớn: 800 tỷ đồng. Toán học VN chưa bao giờ nhận được con số đầu tư cỡ đó. Tôi chưa biết chương trình có được chấp nhận hay không, nhưng khi đệ trình, lần này lần khác vẫn bị phản đối và chưa được thông qua. Nếu được thông qua, toán học sẽ được thúc đẩy phát triển một bước mạnh mẽ và từ đó thúc đẩy các ngành khoa học cơ bản khác phát triển.
Như thế, sự kiện Ngô Bảo Châu có thể coi là một “cú hích”, một may mắn lớn cho ngành toán trong nước. Sự kiện đó có một ý nghĩa rất lớn đối với những người làm toán học trong nước. Có thể chúng ta nhìn thấy được một số điều, nhưng còn có những điều rất lớn nữa chúng ta chưa nhìn thấy. Trong khoa học, vai trò cá nhân rất quan trọng. Tôi cho rằng Ngô Bảo Châu có vai trò này trong việc thay đổi “vận mệnh” ngành toán nước nhà.
- Thưa giáo sư, tại sao trên trường quốc tế, học sinh phổ thông VN khá vẻ vang với các tấm huy chương vàng, bạc tại các kỳ Olympic toán học, nhưng ở bậc học cao hơn, vị thế quốc tế lại kém hơn?
- Đây không phải là vấn đề của riêng lĩnh vực toán học. Tôi từng thử lý giải, tại sao học trò phổ thông giành nhiều đỉnh cao, lên đại học lại kém đi. Có lẽ vì ở bậc phổ thông, các gia đình đầu tư cho con cái rất lớn, tuy nhiên khi con vào đại học, thì việc đầu tư chỉ dừng lại ở chuyện ăn ở chứ không tiếp tục đầu tư cho việc học. Như thế, dẫn đến sự hẫng hụt. Việc đầu tư trở thành việc của nhà nước, chỉ còn nhà nước lo mà lại lo ở mức không thỏa đáng.
Trong khi đó, muốn có nền giáo dục đại học ngang tầm quốc tế, phải đầu tư không kém, thậm chí là hơn. Trong giáo dục không thể dùng “gậy tầm vông” để có chất lượng. Mỹ dùng 1.000 USD thì VN phải 2.000 USD, chứ không phải là 100 USD, vì hiệu suất làm việc chúng ta kém hơn, trình độ thấp hơn. Thực tế thì đầu tư cho đại học của ta luôn ở mức rất thấp. Sinh viên của ta, nói chung trình độ thấp hơn các nước và càng lên cao trình độ càng thấp so với thế giới. Câu chuyện đầu tư cho giáo dục, do vậy phải là sự tổng thể của các nguồn lực: gia đình, xã hội, nhà nước… Học trò xuất sắc bậc phổ thông mà ở bậc học cao hơn tiếp tục được đầu tư không thua các nước, thì kết quả cũng không thua các nước.
Một vấn đề khác, xã hội VN vốn trọng bằng cấp, nhưng trọng một cách hình thức, ít khi phân biệt bằng cấp của trường này trường kia, tốt nghiệp loại gì, để nhiều người học giỏi ra trường lại thua cả người học kém hơn mình. Điều này khiến sinh viên không chịu nỗ lực để học giỏi. Do vậy, đổ lỗi giáo dục đại học kém chất lượng hoàn toàn do ngành giáo dục hay ông bộ trưởng là bất công. Phải thấy xã hội cũng có trách nhiệm trong việc này. Chừng nào xã hội còn không nhìn vào bằng cấp gắn với tên trường, thì tình trạng trên còn chưa thay đổi.
GS.TSKH Hà Huy Khoái sinh tại Hương Sơn, Hà Tĩnh. Năm 1963, ông là sinh viên toán ĐH Tổng hợp Hà Nội. Năm 1978, ông bảo vệ luận án tiến sĩ và năm 1984 là tiến sĩ khoa học tại viện Toán học, viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Từ năm 2001 đến 2007, ông là Viện trưởng Viện Toán học VN. Năm 2004, ông được bầu là viện sĩ viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba, là phó chủ tịch hội Toán học VN, Chủ tịch hội đồng chức danh giáo sư ngành toán (2009–2015), Ủy viên Hội đồng khoa học ngành toán của quỹ Nafosted. |
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị)