Vào 16h50 ngày 14/10 (giờ Hà Nội), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố giải Nobel Kinh tế học 2019 thuộc về 3 nhà khoa học Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer. Họ được giải với nghiên cứu về cách tiếp cận thực nghiệm trong việc giảm nghèo toàn cầu.
Trong đó, bà Esther Duflo (quốc tịch Pháp và Mỹ) là phụ nữ thứ hai giành giải này, sau 50 năm. Bà cũng là người trẻ nhất từng giành được Nobel Kinh tế, ở tuổi 47.
Ông Abhijit Banerje (quốc tịch Mỹ) sinh năm 1961 tại Mumbai (Ấn Độ). Ông hiện giảng dạy tại Học viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ). Esther Duflo sinh năm 1972 tại Paris (Pháp), hiện cũng làm việc tại Học viện Công nghệ Massachusetts (Mỹ).
Còn ông Michael Kremer (quốc tịch Mỹ) sinh năm 1964, là giáo sư Đại học Harvard.
Năm ngoái, giải thưởng được trao cho hai nhà khoa học Mỹ. Đó là William Nordhaus với nghiên cứu về kinh tế học khí hậu và Paul Romer với nghiên cứu về thuyết tăng trưởng nội sinh.
Kinh tế thường là giải thưởng cuối cùng được trao mỗi mùa Nobel hằng năm, sau Nobel Y học, Vật lý, Hóa học, Văn học và Hòa bình. Nobel cho lĩnh vực kinh tế không thuộc cơ cấu giải thưởng ban đầu trong di chúc của nhà khoa học Thụy Điển - Alfred Nobel. Giải này được bổ sung năm 1968, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập Ngân hàng Trung ương Thụy Điển - Sveriges Riksbank, cũng là đơn vị đóng góp quỹ cho giải thưởng này.
Dù vậy, quy trình đề cử, chọn lọc và trao giải Nobel Kinh tế vẫn tương tự các lĩnh vực khác. Nhà khoa học giành Nobel Kinh tế sẽ được trao 9 triệu kronor Thụy Điển (khoảng 915.000 USD).
Đến nay, giải Nobel Kinh tế học đã được trao 50 lần cho 81 nhà khoa học. Người trẻ nhất được xướng tên năm 51 tuổi, và cao tuổi nhất là 90. Phụ nữ duy nhất từng được trao Nobel Kinh tế là bà Elinor Ostrom, với nghiên cứu về Phương thức điều hành nền kinh tế, cùng Oliver E. Williamson năm 2009.
Danh sách Nobel Kinh tế các năm 2008 - 2018
Năm | Người đoạt giải | Công trình | Quốc gia |
2018 |
William Nordhaus Paul Romer |
Kinh tế học khí hậu Thuyết tăng trưởng nội sinh |
Mỹ |
2017 | Richard H.Thaler | Kinh tế học hành vi | Mỹ |
2016 | Oliver Hart và Bengt Holmström | Lý thuyết hợp đồng | Mỹ và Phần Lan |
2015 | Angus Deaton | Mối quan hệ giữa tiêu dùng, nghèo đói và phúc lợi | Mỹ |
2014 | Jean Tirole | Cách thức quản lý các tập đoàn, công ty lớn trên thị trường. | Pháp |
2013 | Eugene F. Fama, Lars Peter Hansen, Robert J. Shiller | Phân tích giá tài sản | Mỹ |
2012 | Alvivin E.Roth và Lloyd S.Shapley | Lý thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị trường | Mỹ |
2011 | Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims | Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế | Mỹ |
2010 | Peter A. Diamond, Dale T. Mortensen và Christopher A. Pissarides | Công thức mới cho sự tương tác trên thị trường, giữa bên có hàng hóa, dịch vụ, việc làm... với bên đi tìm kiếm | Anh, Mỹ |
2009 | Elinor Ostrom và Oliver E. Williamson | Phương thức điều hành nền kinh tế | Mỹ |
2008 | Paul Krugman | Tác động của lợi thế quy mô tới các mô hình thương mại và địa điểm diễn ra các hoạt động kinh tế | Mỹ |
Hà Thu