Mới đây, tạp chí Telecommunication Policy đăng tải bài viết với tiêu đề Thu phí điện tử (ETC) trên đường cao tốc: Xu hướng toàn cầu, kinh nghiệm của Việt Nam và bài học chính sách. Bài viết dài gần 23 trang, là công trình khoa học công phu của PGS.TS Vũ Minh Khương - giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore).
Với cấu trúc 7 phần, nghiên cứu đi từ khái quát các mô hình áp dụng ETC toàn cầu, bao gồm quá trình chuyển đổi tại Trung Quốc và Ấn Độ, đến chi tiết hóa những lợi ích tiềm năng của việc triển khai ETC trên đường cao tốc. Tác giả dành phần lớn dung lượng để phác họa nỗ lực của Việt Nam trong triển khai ETC trên đường cao tốc. Đồng thời lượng hóa những lợi ích hữu hình mô hình này mang lại cho nền kinh tế giai đoạn 2019-2023, dự báo đến 2030.
Theo bài viết, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới từ 1986, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong đó phát triển hệ thống đường cao tốc là một trong những trọng tâm hàng đầu của chính phủ. Đến 2021, nước ta có 1.290 km đường cao tốc và hướng đến 5.000 km vào năm 2030. Quá trình đó gắn liền với việc chuyển đổi từ hệ thống thu phí thủ công (MTC) sang ETC trên các tuyến quốc lộ.
Bài viết của PGS.TS Vũ Minh Khương đánh giá, từ 2019 đến nay mô hình này mang lại những kết quả ấn tượng: giảm thời gian di chuyển, loại bỏ tình trạng tắc nghẽn tại các trạm thu phí, giảm mức tiêu thụ nhiên liệu và giảm lượng khí thải tương đương CO2. Qua đó, hiệu quả vận chuyển, môi trường và sức khỏe cộng đồng được cải thiện rõ rệt.
Nghiên cứu chỉ ra, trong năm 2023, lần đầu triển khai ETC trên cả nước, tổng lượng khí thải CO2 giảm 191.860 tấn, nhờ giảm 60.816 tấn xăng và nhiên liệu diesel tiêu thụ tại các trạm thu phí. Cùng năm, xã hội tiết kiệm được 93,3 triệu giờ cho nhân lực và 37,3 triệu giờ cho tuổi thọ của phương tiện.
Báo cáo chỉ ra tổng chi phí tiết kiệm năm 2023 qua bốn thước đo: năng lượng, nhân lực, tuổi thọ phương tiện và chi phí vận hành đạt 442,7 triệu USD. So với thời điểm bắt đầu thúc đẩy ETC năm 2019, lợi ích của giảm lượng khí thải tương đương CO2 và tổng tiết kiệm tăng 14 lần. Tính chung giai đoạn 2019-2023, lợi ích Việt Nam có từ triển khai ETC có giá trị gần 1 tỷ USD.
Từ những kết quả nêu trên về việc triển khai ETC tại Việt Nam, PGS.TS Vũ Minh Khương và các đồng sự chỉ ra những bài học cho quá trình chuyển đổi này tại các nền kinh tế đang phát triển. Trong đó, cách tiếp cận chủ động, điều phối quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ có vai trò quan trọng. Tại Việt Nam, việc Chính phủ thành lập tổ công tác chuyên trách thúc đẩy áp dụng công nghệ trong phát triển cơ sở hạ tầng giúp quá trình triển khai vượt qua trở ngại ban đầu, quyết định nhanh chóng thực thi trên diện rộng.
Hơn nữa, sự tham gia của các công ty tư nhân trong việc triển khai và quản lý cơ sở hạ tầng ETC nâng cao hiệu quả, tốc độ triển khai và hoạt động. "Quan hệ đối tác công - tư ở Việt Nam đã thúc đẩy sự đổi mới và hiệu quả, tận dụng chuyên môn và nguồn lực của khu vực tư nhân để đẩy nhanh việc áp dụng và nâng cao hiệu quả của hệ thống", bài viết đánh giá.
Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, việc triển khai hệ thống ETC đánh dấu khởi đầu quá trình chuyển đổi kỹ thuật số rộng hơn trong lĩnh vực vận tải, giao thông thông minh. ETC tạo ra dữ liệu có giá trị để quản lý lưu lượng nâng cao, phân tích kinh tế và ra quyết định kinh doanh. "Các ứng dụng tiềm năng của ETC nên được mở rộng sang các hệ thống thanh toán kỹ thuật số tương tự cho thu phí nội đô, bãi đậu xe (e-parking), đổ xăng không tiền mặt hoặc các cơ sở thu phí khác", trích trong bài viết.
Tiến sĩ Vũ Minh Khương là Phó Giáo sư tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Đại học Quốc gia Singapore). Ông chuyên nghiên cứu và giảng dạy về phát triển kinh tế và phân tích chính sách. Tiến sĩ đã xuất bản hai cuốn sách và hơn 50 bài báo trên các tạp chí. Cùng với cộng sự, ông giành giải thưởng Bài báo hay nhất năm 2011 của Ban Công cộng và Phi lợi nhuận thuộc Viện Quản lý Mỹ. Năm 2009, 2011 và 2012 ông có giải thưởng về nghiên cứu và giảng dạy tại Trường Lý Quang Diệu, là nhân vật đứng trong danh sách 2% các học giả hàng đầu thế giới về uy tín học thuật, theo nghiên cứu do Elsevier BV công bố.
Telecommunication Policy là tạp chí quốc tế chuyên về học thuật, các vấn đề liên quan đến chính sách, quản lý và các khía cạnh kinh tế - xã hội của ngành viễn thông, Internet, cùng công nghệ truyền thông khác. Tạp chí do Elsevier xuất bản hàng tháng, có chỉ số ảnh hưởng (Impact Factor) 7.00 vào năm 2023. Trước khi được đăng tải, nội dung nghiên cứu phải được phản biện chặt chẽ bởi các phản biện quốc tế để hoàn thiện căn bản và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ lưỡng trong việc xuất bản.
Lan Anh