Xếp tập vở lên chiếc giá sách bong tróc từng mảng gỗ đặt nơi góc tường, Thường rảo bước về phía cổng. "Mẹ ơi", tiếng gọi cất lên giữa đêm tối. Không nghe thấy tiếng đáp lại, cô gái đi vòng qua nhà người hàng xóm rồi đến trước cổng đình, chạy ngược lên cánh đồng đầu làng, trên bờ đê mẹ cô đang ngồi thơ thẩn. Nhiều năm qua, việc tìm mẹ mỗi ngày không còn xa lạ với cô.
Nguyễn Thị Thường chào đời năm 2002 trong một gia đình chỉ có ba người đàn bà. Em không biết bố mình là ai. Tiếng là nhà có ba người nhưng mẹ em, bà Nguyễn Thị Hồng Minh (sinh năm 1973) và một người chị nữa người bị tâm thần, chỉ có chị cả Nguyễn Khánh Linh là tỉnh táo, bình thường. Đứa bé ấy lớn lên bằng chính sự yêu thương đùm bọc của người bác trong ngôi nhà rộng 20 m2, không có cả phòng vệ sinh.
Mẹ Thường, thi thoảng vẫn tỉnh táo vẫn giúp chị cả năm nay 56 tuổi, cắt cỏ, gặt lúa. Khi trái gió trở trời, bà lang thang đầu đường xó chợ, chẳng nhớ nổi đường về nhà.
Khi mang thai Thường, nhà nghèo chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc giường gỗ cũ tróc sơn. Hàng xóm tặc lưỡi bảo: "Thân nó còn chẳng nuôi nổi nữa là thêm đứa trẻ", bà Linh đưa em gái lên trạm xá với ý định bỏ cái thai. Tại đây, gặp người họ hàng khuyên: "Nhà nhiều người tâm thần, cố giữ đứa trẻ sau này còn đỡ đần lúc tuổi già". Bà Linh lại vuốt nước mắt, quay xe đưa em về.
Giữa trưa nắng tháng 4/2002, Thường chào đời, tên được ông ngoại đặt với mong muốn lớn lên cháu bình thường, không thần kinh giống mẹ. Mẹ đẻ suốt ngày lang thang, không biết chăm con, mọi việc ăn ngủ, tắm giặt của đứa trẻ đều do bà Linh đảm nhận. Lớn lên với ba người phụ nữ, Thường gọi tất cả là mẹ.
Để nuôi cháu và hai đứa em thần kinh, bà Linh ngày chỉ dám ngủ 3-4 tiếng. Ngoài 7 sào ruộng, bà đi cuốc mướn thuê, trồng thêm rau cỏ. Mỗi lần thiếu tiền mua sữa, bà lại vay mượn người quen, quyết không để cháu thiếu đói.
Nhiều cái Tết, gia đình không có gạo nếp và thịt để gói bánh chưng. Thương cháu, bà Linh đi gói bánh thuê, lấy công là cặp bánh về cho cả nhà ăn Tết. Từ năm 7 tuổi, sau 23 tháng chạp, Thường luôn bận rộn bởi ngoài việc đồng áng, em còn phải lo cơm nước, giặt giũ cho hai mẹ thay bác.
"Tết đến cả nhà quây quần ăn bánh chưng bác mang về. Các mẹ cùng cười, cùng chia nhau chiếc bánh, với em đó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất", Thường hồi tưởng.
Hàng ngày, bà Linh dậy từ 1-2 giờ sáng ra đồng hái rau cho kịp phiên chợ sớm. Nhiều lúc em gái đi lang thang, không dám để cháu ở nhà một mình giữa đêm khuya, bà cho Thường đi cùng. Bác dưới ruộng, cháu trên bờ ríu rít trò chuyện. Chuyện chán, Thường ngủ thiếp trên bờ đê đến khi được đánh thức dậy với gánh rau to quằn mình trên vai bác.
Năm Thường 4 tuổi, thấy những tờ giấy mời họp của bác để trên bàn, cô bé lôi ra tô theo chữ trong giấy.
Thấy cháu thích viết, bà Linh thử dạy chữ. Thường học nhanh, sau vài buổi đã thuộc, đọc vanh vách. "Mừng quá mày không giống mẹ, cháu ạ", bà reo lên vui sướng. Từ ngày đó, những cánh cửa gỗ sần, cũ kỹ quanh nhà được Thường tận dụng làm bảng học cho riêng mình. Viết vẽ cô bé đều thể hiện lên đó.
Thấy cháu ham học, mỗi ngày đi bán rau, bà Linh đều chi một khoản mua sách. Nghỉ hè theo chân bác lên chợ, cô bé chỉ thích đến cửa hàng sách to nhất huyện đọc ké. Biết hoàn cảnh gia đình, chủ hàng ít khi đuổi. Dù nhỏ tuổi nhưng Thường không đọc truyện tranh, cổ tích như các bạn mà chọn những cuốn trong bộ sách hạt giống tâm hồn hay cách sống đẹp.
Năm lớp 6, từ một khúc mắc với người bạn, cô bé bị mắng "Đồ không có bố". Thường bắt đầu cảm nhận sự khác biệt giữa mình và các bạn. Sau 2 đêm khóc ướt gối, sang ngày thứ 3, ngủ dậy thấy bác vẫn còng lưng bó rau, mồ hôi nhỏ xuống thành dòng, cô bé đứng thẳng dậy, vẽ một mặt cười và dòng chữ "Hãy cười lên" trên cánh tủ - nơi có nhiều ánh sáng nhất trong nhà.
Từ lúc đó, cô bé không bao giờ khóc khi ai đó nói những câu tương tự.
Năm lớp 7, Thường được giới thiệu tới Khát Vọng - tổ chức chuyên giúp đỡ trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn. Khi là thành viên, em được giúp đỡ về vật chất và tham gia hội trại dành cho trẻ cùng hoàn cảnh.
Một lần biết đến câu chuyện một bạn mồ côi cha mẹ, phải đi bán vé số, Thường tự nhủ: "Mình may mắn hơn bạn vì vẫn có người yêu thương". Từ ngày đó, từ một cô bé ít chia sẻ cảm xúc, Thường tham gia nhiều hoạt động trên trường như hội diễn văn nghệ, câu lạc bộ sách, cuộc thi hùng biện, thường xuyên viết và đăng các bài cảm nhận sách lên trang cá nhân của mình.
Bốn năm cấp 2, Thường là học sinh giỏi, năm nào cũng đạt giải Olympic Toán của huyện Thạch Thất. Năm lớp 9, sau khi đạt giải Nhì môn Văn cấp thành phố, cô bé được xét tặng học sinh ưu tú của Thủ đô.
Không có tiền đi học thêm, Thường tự học, tra cứu từ sách vở và Internet. Năm lớp 10, quỹ Khát Vọng tặng cho chiếc máy tính cũ. Nhà không có wifi, Thường kê bàn ra cổng ngồi học, bắt wifi nhờ hàng xóm. Dù ban đêm muỗi đốt, ban ngày nắng thiêu đốt, nhưng hiếm khi cô bé nghỉ học.
Không chỉ đảm bảo điểm số và thành tích tại trường, Thường cũng tự lên mạng học tiếng Anh, tập thuyết trình và luyện phát âm. "Ở cô bé này luôn có sự thôi thúc vươn lên mạnh mẽ tiềm ẩn dưới vẻ dễ thương, nhí nhảnh, hòa ái của một cô bé sinh ra từ nông thôn", cô Vũ Thị Dung - người sáng lập quỹ Khát Vọng nhận xét.
Lên lớp 11, Thường tham gia cuộc tranh biện tại trường với chủ đề "Phụ nữ có nên phá thai không?".
"Em nghĩ đến bản thân mình, nếu bác không cho cơ hội sống thì em đã không có mặt ở đây ngày hôm nay", Thường nêu lý do tham gia. Kết quả, cô bé giành giải nhì.
Một năm trước, Thường biết tới Đại học Fulbright Việt Nam. Cô gái 18 tuổi đã quay lại quá trình tự gói bánh chưng và kể lại câu chuyện cuộc đời gắn liền với chiếc bánh bác làm bằng tiếng Anh, gửi đến hội đồng tuyển sinh. "Chiếc bánh này có ý nghĩa rất lớn vì nó gói ghém tình yêu và sự hy sinh của bác - người mẹ thứ hai của tôi - trong đó", Thường diễn giải.
Đầu tháng 6/2020, biết tin cháu gái nhận được hỗ trợ tài chính trị giá 2,2 tỷ đồng trong 4 năm đại học, bà Linh chạy khắp xóm khoe: "Cái Thường được học trường Tây", trong khi mẹ đẻ chỉ hềnh hệch cười khi biết con gái được đi học miễn phí.
Dưới cái nắng oi ả tháng 7, Thường mở chiếc hộp đựng giấy báo đỗ đại học lấy chiếc huy hiệu của nhà trường lau đi lau lại sạch bóng. Trong bốn năm tới, cô gái 18 tuổi quyết định chọn ngành tâm lý để trở thành nhà xã hội học, tốt nghiệp sẽ trở về quỹ Khát Vọng giúp đỡ những trẻ bất hạnh khác.
"Giờ em có thể tự tin đứng trước bác và mọi người nói rằng, quyết định giữ lại em 18 năm trước là một việc làm đúng đắn", Thường nói, khóe mắt ánh lên niềm tự hào.
Hải Hiền