Năm nay, lại đến ngày Nhà giáo Việt Nam nhưng bao thế hệ học trò của thầy chẳng thể gọi được cuộc điện thoại hỏi thăm hay ngồi quây quần bên thầy để nghe trách mắng nữa. Thầy Trần Văn Thiện - nguyên phó trưởng khoa Báo chí ĐH Khoa học Huế - đã yên nghỉ mấy tháng nay do bạo bệnh khi tuổi đời chỉ vừa 48.
Tôi còn nhớ như in, hôm đó là ngày Quốc khánh, 21h21 tôi nhận được tin nhắn của một đứa em học khóa sau "Thầy Thiện mất rồi chị ơi". Dòng tin nhắn ngắn ngủi nhưng chứa đựng sự hối tiếc đau xót, từng chữ một cắt vào tâm can tôi giữa đêm. Bao nhiêu ký ức về thầy như thước phim đang quay chậm.
Người thầy của nhiều thế hệ sinh viên báo chí Huế trong vòng tay học trò. Ảnh: Hoàng Quân. |
Nhớ, ngày ấy tôi là một đứa học sinh tỉnh lẻ, quê mùa vào thành phố Huế (Thừa Thiên Huế) nhập học. Những ngày đầu bước chân vào giảng đường còn bao bỡ ngỡ tôi đã gặp thầy. Người có dáng đi liêu xiêu, gầy gò và bên hông khi nào cũng cặp một mớ tài liệu.
Thầy bắt đầu dạy chúng tôi bằng những môn lý luận đầu tiên về ngành báo chí, và dĩ nhiên nó rất khô khan, khó nuốt. Nhưng những bài giảng của ông không chỉ dạy về nghề báo, ông dạy về đạo đức tác phong nhiều hơn là dạy kiến thức. Cả không ít trăn trở của một người thầy về cái nghiệp cầm bút sau này của những "nhà báo nhớn".
Trên lớp thầy luôn nghiêm nghị, những câu hỏi mà thầy đặt ra hiếm khi chúng tôi trả lời đúng. Nhiều khi ông cho cả lớp đứng nguyên tiết học chỉ vì không trả lời được những câu hỏi ấy. Còn lời giảng của thầy thì dài, thao thao bất tuyệt, để theo kịp chúng tôi chỉ biết cắm đầu cắm cổ ghi thật nhanh lời của thầy. Nhưng chẳng mấy ai ngạc nhiên khi về xem lại những lời giảng ấy chúng tôi chẳng thể hiểu gì...
Ấy thế mà cũng chẳng biết từ khi nào, từng bài giảng về nghề, về đạo đức làm người của thầy lại thấm dần vào đầu. Chính vì không thể hiểu bài của thầy nên chúng tôi phải đọc đi đọc lại, và thứ cuối cùng đọng lại trong mỗi đứa học trò không phải là những bài lý thuyết mà là những trăn trở của thầy. Sau này, những tiết học của thầy trở nên dễ thở hơn khi bài thi của môn thầy dạy chúng tôi luôn được điểm cao. Ấy vậy mà những đứa sinh viên chúng tôi lại cứ nhớ mãi câu nói của thầy: "Mấy điểm không quan trọng, quan trọng là tụi bay ra trường có thể làm được gì".
Khác với vẻ nghiêm nghị trên giảng đường, thầy ở nhà là một người hoàn toàn khác, rất xề xòa. Không có gia đình riêng, thầy lủi thủi sống trong căn phòng trọ nhỏ và đây cũng là nhà của hàng trăm đứa học trò khoa Báo chí. Chúng tôi xem đây là nơi tụ tập mỗi khi có dịp, còn thầy thì cười tít mắt khi thấy sinh viên sum vầy bên mình. Thương chúng tôi đều từ tỉnh nghèo lên học, cứ đứa nào thiếu tiền học phí, thiếu tiền ăn thầy lại lấy những đồng lương ít ỏi của mình đem cho "mượn".
Có đứa từ quê lên nhập học dính vào lô đề, đem hết tiền học phí ném vào trò đỏ đen. Thầy biết giận lắm nhưng không trách mắng, đưa tiền cho học trò đóng học phí, thầy bảo: "Khi nào được nghỉ học, thầy cho tiền về quê. Mày cứ lặng lẽ bắt xe về, đừng báo trước với gia đình. Về đó xem cha mẹ mày đang làm gì ở nhà, và vào bếp lục xem họ đang ăn cơm với gì".
Cậu bạn của tôi nghe vậy cũng làm theo. Ngày trở vào cậu ôm thầy khóc nức nở và cho biết, 11h trưa nắng như đổ lửa, khi cậu về tới nhà mà cha mẹ vẫn gặt lúa ngoài đồng. Còn trong bếp, ngoài nồi cơm nguội chỉ có thêm mấy con cá khô kho mặn chát. Cũng từ đó, cậu học trò của thầy bỏ hẳn máu đỏ đen, lao đầu vào học và đi làm thêm để tự trang trải cuộc sống của mình.
Còn với những đứa con gái thích điệu đà như chúng tôi, có lần thầy hỏi: "Cái áo của em bằng mấy tạ thóc của mẹ ở nhà?". Thầy là vậy, luôn khiến chúng tôi nhìn lại mình mỗi khi được thầy nhắc nhở.
Năm nay, ngày 20/11 nhiều thế hệ học trò của thầy ngậm ngùi mua hoa ly về cắm trên mộ. Ảnh: Nguyên Linh |
Thầy độc thân nên cũng thích la cà. Cứ tối, ở nhà buồn thầy lại kêu sinh viên lên mấy quán cóc ở ga tàu ngồi. Chẳng để làm gì cả, chỉ là thầy trò uống với nhau chén nước trà, ăn vài cái kẹo lạc nhưng chính những buổi hàn huyên này mà hoàn cảnh đứa nào trong lớp, trong khoa thầy đều biết hết. Cả khoa báo chí lúc đó có tới 4 khóa, nhưng từ năm nhất tới năm tư thầy đều nhớ tên và thuộc đặc điểm của từng đứa.
Thầy cũng không thích màu mè nên đến ngày lễ, tết thầy luôn dặn trước: "Tụi bay đều là con nhà nghèo từ quê lên, tiền cha mẹ gửi thì để dành mà trang trải chi phí cuộc sống. Đừng mua quà cho thầy, thầy có đủ rồi". Vì lời dặn này nên chúng tôi rất ít khi mua quà mà thỉnh thoảng chỉ mua vài nhành hoa ly lên phòng thầy cắm. Hay thương thầy thì đi chợ rồi về phòng nấu ăn để mấy thầy trò cùng quây quần bên mâm cơm. Ấy mà thầy thương lắm, tiền đi chợ thầy cũng nhét vào túi áo cho đến khi chúng tôi chịu nhận thầy mới yên lòng.
4 năm gắn bó với thầy, mỗi thế hệ học sinh báo chí đều xem thầy như người anh, người cha của mình. Thầy trách mắng, dọa nạt nhiều lắm nhưng mảy may không ai oán giận, ấm ức mà đều cảm thấy hạnh phúc vì chính những lời của thầy đã giúp chúng tôi trưởng thành. Cũng chính vì thế mà những kỷ niệm thời sinh viên của chúng tôi đều gắn liền với thầy. Sau này ra trường, gặp gỡ nhiều thế hệ đàn anh đi trước và cả những người ở khóa sau, ai nhắc đến thầy cũng cùng chung một niềm tôn kính. Thế nên, mỗi khi có dịp, chúng tôi lại xum họp về Huế chỉ để mong được gặp lại thầy.
Lần chúng tôi nhận được tin thầy bệnh nặng, ai cũng thảng thốt khi các bạn ở gần cho biết thầy khó lòng qua khỏi. Thương thầy, chúng tôi cố gắng góp mỗi người một ít để phụ thầy nằm viện nhưng khi biết việc này thầy tỏ ra không vui bởi cho rằng mình làm phiền học trò.
Ngày thầy về với đất mẹ, chiếc xe chở thầy đã đi qua cổng trường ĐH Khoa học Huế - nơi thầy dành bao tâm huyết cho học trò - lần cuối. Thầy ra đi khi những bài giảng, những trang luận án tiến sĩ - công sức của cả đời thầy vẫn còn dang dở...
Hôm nay, ngày 20/11 đầu tiên vắng thầy, những thế hệ học trò khoa Báo chí rủ nhau mua những nhánh hoa ly về cắm trên mộ thầy. Và chúng tôi vẫn nghe văng vẳng đâu đó tiềng thầy dọa nạt: "Tụi bay đừng có tào lao, tiền đâu mà mua hoa ly, hoa này đắt tiền lắm".
Nguyễn Loan