Ở Sài Gòn vài tháng, tôi lại gặp một cái may định mệnh là ngẫu nhiên đọc được thông báo của Đại sứ quán Nhật về việc tuyển sinh du học với học bổng của Chính phủ Nhật Bản. Cuộc đời tôi đã sang một bước ngoặt lớn, một may mắn mà tôi chưa bao giờ mơ tới.
Tháng 4 năm 1968, tôi sang Nhật du học. Lúc đó tôi dự định học xong đại học hay nhiều lắm là xong bậc tiến sĩ sẽ về nước với hy vọng đất nước khi ấy đã hết chiến tranh, mọi người nỗ lực góp phần vào việc phục hưng xứ sở. Nhưng rồi thời thế đưa đẩy, tôi đã ở lại Nhật Bản cho đến ngày nay.
Dù không phải là con đường đã chọn ban đầu nhưng nơi đến cũng mở ra nhiều cơ hội. Là người Việt, tôi yêu quý Việt Nam, nay lại có thêm một đất nước để yêu mến. Người bạn đời của tôi cũng yêu mến Nhật Bản, yêu thích văn học Nhật Bản, đã và đang dịch nhiều tiểu thuyết, truyện ký Nhật Bản sang tiếng Việt.
Khi ra đi tôi chưa đầy 19 tuổi. Chiến tranh và điều kiện kinh tế không cho phép nên tôi chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp ở làng xóm, trường học. Vào Sài Gòn cũng không đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở nơi trọ, nơi làm việc và đại học. Trong hoàn cảnh bận rộn đó, ý thức về Việt Nam rất ít. Nhưng khi rời xa quê hương, tự nhiên tôi nhớ và suy nghĩ nhiều về đất nước.
Ngoài lòng tự hào dân tộc về một nước Việt có nền văn hóa thống nhất, lịch sử nhiều ngàn năm dựng và giữ nước, điều khắc sâu vào tâm tư tôi là quê hương mình nghèo quá. Tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê nhưng cũng nói lên cuộc sống nghèo khó như “Nắng lên xóm nghèo”, “Quê nghèo”, “Tình nghèo”... Tôi mong chiến tranh chấm dứt nhanh, Việt Nam phải bước sang giai đoạn thoát nghèo và phát triển.
Tôi sang Nhật du học tháng 4 năm 1968. Lúc đó Nhật Bản kỷ niệm 100 năm Minh trị Duy tân và đang trong thời kỳ phát triển ngoạn mục, năm ấy cũng đánh dấu mốc Nhật vượt Tây Đức trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Sự kiện này làm tôi quan tâm, muốn học về kinh nghiệm phát triển của Nhật.
Tôi đã học về kinh tế, nhất là kinh tế phát triển tại Nhật Bản và thấy đó là điều rất ý nghĩa. Nhật Bản là nước đi sau trong trong dòng thác công nghiệp của thế giới, đã tích cực du nhập công nghệ, luật lệ, tổ chức hành chính, tri thức quản lý từ các nước tiên tiến Âu, Mỹ và đã thành công trong việc đuổi kịp các nước đi trước. Có rất nhiều nghiên cứu về sự thành công của Nhật, riêng tôi đã thử tìm một nguyên nhân tổng hợp nhất để có thể tham khảo được cho các nước đi sau Nhật. Tôi tìm ra một từ khóa để chỉ nguyên nhân đó: Năng lực xã hội.
Đó là năng lực và tố chất của những nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố cấu thành phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển? Dĩ nhiên tố chất quan trọng của chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của quan chức là năng lực quản lý hành chính, của giới kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp. Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, không phải chỉ có các tố chất đó.
Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Đặc biệt trong thời đại Minh Trị và thời kỳ phục hưng và phát triển hậu chiến, những tố chất đó biểu hiện mạnh mẽ nhất.
Tôi chỉ xin đơn cử trường hợp nhà kinh doanh. Thông thường thì nhà kinh doanh phát huy tinh thần doanh nghiệp để mưu tìm lợi nhuận chân chính. Tinh thần doanh nghiệp - entrepreneurship - thường được định nghĩa là tinh thần mạo hiểm và năng lực cách tân công nghệ, tích cực khám phá thị trường, ứng dụng công nghệ để làm ra các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Nhưng những nhà kinh doanh tiêu biểu của Nhật không phải chỉ có thế. Hầu hết những nhà sáng lập những công ty tiêu biểu của họ hiện nay đều xuất phát từ lòng yêu nước, từ trách nhiệm xã hội.
Lấy trường hợp Sony, một trong những công ty đại biểu của Nhật ngày nay. Trong buổi lễ thành lập công ty vào năm 1946, bài diễn văn của Ibuka Masaru, người đồng sáng lập công ty, đã gây xúc động lòng người. Ông nói: “Ta phải nỗ lực đem công nghệ góp phần vào việc phục hưng tổ quốc của chúng ta”. Giữa cảnh hoang tàn đổ nát một năm sau chiến tranh, thái độ của những người có trách nhiệm trong xã hội đã gây phấn chấn và kích thích mọi người hăng hái tham gia vào việc phục hưng đất nước.
Với năng lực xã hội như thế, Nhật Bản đã theo kịp các nước Âu Mỹ. Thật ra thời trước Thế chiến thứ hai, Nhật đã theo kịp Tây phương trong một số ngành, lĩnh vực, nhưng phải đợi đến thập niên 1960, 1970, bằng một giai đoạn phát triển cao độ, Nhật Bản mới hoàn toàn theo kịp Âu Mỹ. Giai đoạn phát triển cao độ này, bắt đầu giữa thập niên 1950 - mỗi năm phát triển trung bình 10% và kéo dài tới 18 năm - đã đưa nước Nhật thành một cường quốc kinh tế. Nhiều người nói đó là giai đoạn phát triển thần kỳ, có nhà nghiên cứu đã nói “6.000 ngày làm thay đổi nước Nhật”.
Gần đây tôi khám phá ra một điểm mà tôi thấy thú vị là kinh tế Việt Nam hiện nay rất giống với đêm trước của thời đại phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Giữa thập niên 1950, dân số Nhật cũng khoảng 90 triệu, cơ cấu kinh tế về sản xuất, xuất khẩu cũng như sự phân bổ lao động rất giống Việt Nam ngày nay. Nhưng từ sau đổi mới, Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,5% mỗi năm và chưa có giai đoạn phát triển cao độ. Tôi rất mong Việt Nam sớm muộn cũng sẽ có một thời đại như Nhật Bản.
Thời trung học tôi đọc nhiều tiểu thuyết trong Tự lực văn đoàn. Trong một truyện dài, Nhất Linh đã để cho nhân vật chính của mình nói về lòng yêu nước mà tôi thấy rất thích hợp trong giai đoạn chưa phát triển của Việt Nam: “Biểu hiện cho đất nước không phải là những bậc vua chúa hay danh nhân mà là đám dân thường không tên không tuổi. Dân là nước, yêu nước là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn thấy đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất đúng đắn.
Trần Văn Thọ
(Bài viết trích từ Diễn từ của Giáo sư Trần Văn Thọ tại Lễ nhận huân chương Thụy bảo Tia vàng của Thiên hoàng Nhật Bản, ngày 15/8/2018)