Kim Vân Kiều truyện được viết vào năm Gia Tĩnh nhà Minh (1522-1567). Lúc này, nền y dược của Trung Quốc đã rất nổi tiếng, bằng chứng là sự ra đời cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Đây là một công trình thực sự có giá trị khoa học, nổi tiếng vào thế kỷ 16 và vang dội qua cả Tây phương.
Khi được Mã giám sinh đưa đến lầu xanh ra mắt Tú bà, nàng Kiều mới biết mình đã sa chân vào hang hùm nọc rắn. Nàng rút dao đâm vào cổ tự vẫn và được cứu bằng nước gừng, Kim sang tán và các dược thảo giúp cầm máu.
Nước gừng thường được dân gian Trung Quốc và Việt Nam dùng để cấp cứu khi nạn nhân còn khả năng uống nước và nuốt được. Nó kích thích cho mạch máu đập lại khi nạn nhân bị ngất.
Thuốc Kim sang tán gồm nhiều thứ thảo dược nghiền ra rắc vào vết thương do đao thương để cầm máu và trừ độc. Theo kinh nghiệm lâm sàng thì vết cứa cổ của Thúy Kiều cắt vào khá cạn, nằm ở phía cuống hầu nên không đụng vào động mạch cảnh. Thành phần của Kim Sang tán có thể là những thảo dược có công hiệu cầm máu và trừ độc, chẳng hạn như cây cẩu tích, cỏ mực, dành dành, cây hòe, bạch phàn.
Tú bà cũng dùng cho Kiều một số vị thuốc hành huyết, gồm:
- Hồng hoa (Carthamus tinctorius Linn): Tính ấm, vị cay, không độc; khử ứ huyết và làm giảm đau, thường dùng trong toa điều kinh, sinh khó, tích huyết tử cung hậu sản; dùng sắc với rượu uống làm tan máu bầm.
- Tô mộc (cây gỗ vang - Caesalpinia sappan Linn): Tính bình, vị mặn ngọt, không độc, công dụng như trên trong trường hợp thương tích, sưng bầm máu. Ngoài ra, thí nghiệm khoa học hiện đại cho thấy nước sắc của tô mộc còn có tính kháng khuẩn.
- Đào nhân (hạt đào - Persicae semen): Tính bình, đắng ngọt, không độc; trị huyết bầm ứ do thương tích.
- Nga truật (Ngải tím - Nghệ đen Curcuma zedoaria Rosc.): Tính ấm, vị chua ngọt, hơi đắng, không độc, khử ứ huyết và tan độc nên dùng trị kinh nguyệt tích ứ và thương tích bầm tím.
- Tam lăng (Spargani rhizoma): Tính bình, vị đắng, công hiệu trị liệu như nga truật.
Sau khi dùng thuốc hành huyết, da thịt của Kiều không những hết bầm tím mà lại trở nên hồng hào, đẹp đẽ hơn. Do Kiều là phương tiện hái ra tiền của Tú bà nên mụ vẫn "chuốt lục tô hồng" cho nàng bằng nhiều vị thuốc mỹ dung nữa. Đó là bài Đương qui Thược dược tán, vừa bồi bổ cho những phụ nữ thể tạng yếu và xanh, hay mệt nhọc vừa tẩy vết nám quanh mắt, mũi; hay bài Thanh thượng phòng phong thang để ngừa mụn, da sẩn đỏ và có tia máu ở tròng trắng mắt. Kiều cũng được bôi nghệ để giúp da mau lành và không gây sẹo.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)