Ngoài truyện ngắn, Nguyễn Công Hoan còn là tác giả của hàng chục cuốn tiểu thuyết, dù đây không phải là sở trường của ông. Ba tiểu thuyết đặc sắc nhất của Nguyễn Công Hoan gồm Lá ngọc cành vàng, Ông chủ và Bước đường cùng.
Bước đường cùng được nhà văn viết năm 1938, dài hơn hai trăm trang. Tác phẩm từng được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và được ghi nhận như một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945.
Tiểu thuyết viết về nhân vật anh Pha, nông nhân nghèo khổ, bị áp bức trong xã hội phong kiến. Anh Pha cùng Trương Thi và San là những người cùng chung số phận, cùng bị Nghị Lại tịch ký mất ruộng.
Vì không trả được nợ, cả ba đã đoàn kết chặt chẽ, không cho thợ gặt của tên địa chủ ấy xuống gặt lúa của mình. Khi hắn đưa lính khố xanh về hộ vệ cho thợ gặt cướp lúa, anh đã vớ chiếc đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào đầu.
Anh bị đám lính ôm ghì, đè ngửa ra và trói gô lại, khiêng đi trình quan. Kết thúc, nhà văn đã mô tả tâm trạng ấm ức, nghẹn ngào của nhân vật này. Pha giơ hai cánh tay bị trói lên trời, nắm chặt bàn tay run run vào ngực để tỏ nỗi căm hờn, nghiến răng, rồi nhắm nghiền mắt lại, kệ cho hai dòng lệ tuôn ra.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan. Ảnh tư liệu.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định.
Ông viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được xuất bản năm 1923) là đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ quốc ngữ.
Nhiều tác phẩm của ông gây tiếng vang một thời, có tác phẩm trở thành kinh điển của dòng văn học hiện thực như Người ngựa và ngựa người (truyện ngắn, 1931); Thế là mợ nó đi Tây (truyện ngắn, 1932); Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933); Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết, 1934); Kép Tư Bền (tập truyện ngắn, 1935); Oẳn tà roằn (truyện ngắn, 1937); Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938); Tinh thần thể dục (truyện ngắn, 1939); Cái thủ lợn (tiểu thuyết, 1939)...
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945, ông làm giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, Giám đốc Trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo.
Năm 1951, Nguyễn Công Hoan làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách lịch sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950. Từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, Nguyễn Công Hoan trở lại nghề văn.
Khi Hội nhà văn Việt Nam thành lập năm 1957, ông là chủ tịch đầu tiên của hội sau đó tham gia với cương vị ủy viên thường vụ Ban Chấp hành nhiều khóa. Ông còn là Tổng biên tập đầu tiên của báo Văn nghệ, khi ấy gọi là Chủ nhiệm báo Văn.
Nguyễn Công Hoan được giới phê bình đánh giá là một trong số ít nhà văn hiện đại Việt Nam viết nhiều nhất với hơn 300 truyện ngắn, gần 30 truyện dài, tiểu thuyết và nhiều tiểu luận văn học.