Làng Gia Quất nằm gần ga Gia Lâm, Hà Nội. Gọi là làng do thói quen, chứ thực ra bây giờ là cụm dân cư hoặc phố Gia Quất. Nhắc đến “giếng thần”, cụ Nguyễn Văn Hiền, một bậc cao niên trong làng chậm rãi: “Chẳng ai biết chính xác giếng có từ khi nào. Song có một điều chắc chắn là ngay khi lập làng, lập xóm, người dân cần phải có nước để ăn uống, tắm giặt”. Thế nên theo suy luận của cụ Hiền thì rất có khả năng “giếng thần” ở làng được hình thành từ thế kỷ thứ 11.
Làng Gia Quất được khai sinh từ triều nhà Lý, cụ thể là đời vua Lý Nhân Tông. Ngoài những vật thể và phi vật thể còn lưu lại thì bằng chứng sinh động nhất hiện nay là ngôi đình của làng vẫn đang được nhân dân thờ phụng hai vị tướng tài ba là Đức Minh Trụ và Đức Minh Khiết. Hàng năm cứ đến ngày 9-10/2 (âm lịch) dân làng Gia Quất nói riêng, nhân dân trong vùng nói chung lại mở hội để tưởng nhớ công ơn của những vị thành hoàng.
"Giếng thần dứt khoát đã tồn tại từ hàng trăm năm nay, thậm chí là cả nghìn năm có lẻ", cụ Hiền cho biết.

Người dân Gia Quất cho biết nước "giếng thần" đã có từ lâu đời.
Cụ cho hay, nước ở đây không bao giờ cạn, kể cả khi xảy ra hạn hán, lòng sông Hồng và sông Đuống lộ đáy. Mùa hè, nước giếng mát lạnh, còn mùa đông lại ấm nóng. Nước trong vắt không khác nào nước cất. Từ ngày cụ sinh ra đến nay, dân làng Gia Quất mới có hai lần phải nạo vét đáy giếng để loại bỏ phù sa, những thứ bẩn rơi vãi xuống.
Còn điều cụ Trương Văn Giáp (72 tuổi) luôn tự hào chính là dùng nước “giếng thần” luộc bánh chưng trong ngày Tết, khi bóc ra cả bánh và lá dong đều xanh mướt và không bị dính. Bánh lại có độ rền và lâu thiu, lâu mốc hoặc đóng cứng, kể cả khi gặp thời tiết nồm ẩm. Thông thường muốn bánh chưng Tết có được các đặc tính trên lại nhừ, nhuyễn thì phải luộc ít nhất 12 tiếng đồng hồ. Trong khi đó, dùng nước “giếng thần” nấu bánh thì thời gian chỉ còn 7-8 tiếng.
Cụ Giáp kể, ngày còn trẻ, mỗi dịp về quê Vĩnh Bảo, Hải Phòng ăn Tết, cụ thấy bánh chưng ở quê mình chẳng thể nào sánh với bánh chưng Gia Quất. Ban đầu cụ Giáp chỉ nghĩ đó là do “lỗi” kỹ thuật làm bánh và luộc bánh mỗi địa phương khác nhau. Dần dà, cụ nhận ra cứ ra khỏi làng Gia Quất, hay nói đúng hơn là nếu không dùng nước “giếng thần” luộc bánh chưng thì bánh sẽ không thể nào đạt được màu sắc, hương vị cũng như độ nhuyễn của gạo, đỗ và thịt…

Nghề làm bánh chưng của làng đang quay trở lại khi người dân nội thành đặt hàng nhiều.
Chứng minh về sự nổi trội giữa bánh chưng được nấu bằng nước “giếng thần” với bánh chưng thiên hạ, cụ Hiền bảo: “Chẳng thế mà Gia Quất từng một thời ăn nên làm ra từ nghề bánh chưng. Thời kỳ ấy cũng mới chỉ cách nay vài ba chục năm thôi. Danh tiếng bánh chưng Gia Quất thơm ngon lan truyền nên hầu hết gia đình trong làng đều làm bánh và lấy đó là một nghề để tăng thêm thu nhập”. Cụ Hiền giải thích thêm, “giếng thần” chắc chắn được tạo bởi một mạch nước ngầm có trữ lượng cực lớn, sau đó là trong thành phần nước có nhiều khoáng chất, nhất là lượng kẽm. Vì thế mà rất hữu dụng trong việc luộc bánh chưng cùng các loại bánh trái tương tự.
Do đời sống kinh tế phát triển, trong khi nghề làm bánh phải thức khuya, dậy sớm mà lời lãi chẳng đáng bao nên người dân dần buông nghề. Bây giờ, Gia Quất chỉ còn lại vài nhà làm bánh chưng chuyên nghiệp. Nhưng mấy năm trở lại đây, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về thì không khí làng nghề lại tưng bừng trở lại bởi người dân bên nội thành hoặc các đại lý cung cấp bánh chưng Tết thi nhau kéo sang Gia Quất đặt hàng.
Liên quan đến “giếng thần”, cả cụ Hiền và cụ Giáp đều bày tỏ, trước đây đã thế và bây giờ vẫn vậy, cứ từ ngày 25 tháng chạp trở đi là người dân làng Gia Quất lại kéo nhau ra xin nước “thần giếng” về luộc bánh chưng. Rồi chẳng biết từ khi nào, hễ tới đêm giao thừa, tất cả gia đình trong làng đều cử người ra “giếng thần” lấy nước mang về để trong nhà, sau đó múc một bát đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt hơn, khi ra múc nước, mọi người phải tính toán làm sao để từ nhà ra giếng, rồi quay về phải đúng vào thời khắc sang canh thì sang năm mới gia đình mới an khang, thịnh vượng và nhiều tài lộc. Khi lấy nước, mọi người đều phải tuần tự xếp hàng, không nói chuyện dù chỉ một câu.
“Cuộc sống đã đổi thay và tên làng giờ được gọi bằng phố, nhưng với người dân chúng tôi thì cái tên giếng làng hay giếng thần vẫn bất biến”, cụ Hiền quả quyết.
Theo An ninh thủ đô