Theo báo cáo của TAND Tối cao, trong năm 2000, số vụ án yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà tòa án các địa phương thụ lý mới chỉ có 8 vụ, giảm 3 vụ so với năm 1999. Riêng TP HCM, sau gần 7 năm kể từ ngày Luật Phá sản doanh nghiệp (PSDN) có hiệu lực đến nay, chỉ có 14 doanh nghiệp làm đơn giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Theo thẩm phán Trần Văn Sự, Phó chánh Tòa kinh tế TAND TP, con số này không phản ánh đúng thực trạng “sức khỏe” của các doanh nghiệp vì có nhiều dấu hiệu cho thấy số lượng các doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, phải tiến hành các thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN lớn hơn nhiều.
Lý do lớn nhất xuất phát chính từ những quy định của luật. Trước hết, do luật chưa quy định biện pháp chế tài đối với doanh nghiệp bị thua lỗ, lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn nhưng không làm đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố PSDN. Hậu quả là nhiều doanh nghiệp đã thực sự “chết” nhưng không được khai tử. Mặt khác, cũng có trường hợp các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng vẫn sử dụng pháp nhân để tìm cách chiếm dụng tài sản của các doanh nghiệp khác bằng nhiều thủ đoạn tinh xảo hơn. Vì vậy, danh sách chủ nợ càng kéo dài càng dễ kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp khác.
Kế đến là việc giải quyết tuyên bố phá sản đối với DNNN. Hiện nay, do chưa nhận thức đầy đủ về Luật PSDN nên các cơ quan quản lý các doanh nghiệp này thường lúng túng giữa giải quyết tuyên bố phá sản hay giải thể doanh nghiệp. Kết quả, trên địa bàn TP 7 năm qua chỉ có 2 DNNN yêu cầu giải quyết tuyên bố PSDN.
Theo ông Trần Văn Sự, một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là do Nhà nước chưa quy định chế độ kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp về thực trạng tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhằm sớm phát hiện những trường hợp mất cân đối về tài chính mà không có khả năng khắc phục, để yêu cầu doanh nghiệp đó tiến hành các thủ tục giải quyết tuyên bố PSDN theo luật định. Chính vì vậy, đánh giá doanh nghiệp có đúng là mất khả năng thanh toán do làm ăn thua lỗ hay không rất khó thực hiện. Nhiều vụ được đưa tới kiểm toán nhưng cơ quan này đành “bó tay” bởi hầu hết các doanh nghiệp tư nhân không còn sổ sách kế toán?!
"Có ít nhất 12 vấn đề mà Luật PSDN quy định không rõ ràng hoặc không khả thi nhưng vẫn chưa được sửa đổi dù các cấp tòa án đã nhiều lần kiến nghị", ông Sự nói. Ví dụ như trường hợp chủ doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ, đã làm đơn yêu cầu tuyên bố PSDN nhưng không có tiền để thuê kiểm toán thì giải quyết thế nào? Hay tại khoản 3 Điều 7 Luật PSDN quy định: Chủ nợ khi nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố PSDN đến tòa án phải gửi kèm theo tài liệu chứng minh doanh nghiệp mắc nợ mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này không thực tế. Ai cũng biết rằng việc chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn bao gồm nhiều công đoạn như: lập báo cáo quyết toán tài sản, kiểm toán… và phải do chính doanh nghiệp mắc nợ tiến hành. Điều 10 Luật PSDN quy định: “Trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì tòa án thông báo cho các chủ nợ doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố PSDN”. Nhưng nếu tòa án thông báo mà chủ nợ không nộp đơn thì sao?
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PSDN là việc cần làm ngay bởi nó không chỉ tạo thuận lợi cho tòa án trong việc giải quyết các yêu cầu tuyên bố PSDN mà còn tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay.
(Theo SGGP, 8/6)