Thảo luận về dự án Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi) chiều 20/11, hầu hết đại biểu đề nghị ban soạn thảo rà soát, bổ sung thêm các quy định để dự án luật thật sự mang tính đột phá, thể chế hóa được chủ trương lớn nhất của Đảng và chính sách của Nhà nước là bảo đảm "phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu".
Nhiều ý kiến cho rằng một trong những vướng mắc lớn, "điểm nghẽn" chủ yếu trong hoạt động khoa học, công nghệ hiện nay là cơ chế tài chính. Cơ chế tài chính thể hiện trong luật còn nặng tính bao cấp, chưa phù hợp với đặc thù, đáp ứng yêu cầu về tiến độ của hoạt động khoa học, công nghệ, chưa tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ bảo đảm sử dụng đúng mục đích.
Theo đại biểu Trương Minh Hoàng, nguồn lực cho khoa học đã ít nhưng nhiều nơi sử dụng không đúng mục đích, không đảm bảo. Thậm chí có địa phương chỉ sử dụng 30% nguồn kinh phí. "Ít mà cũng dùng không hết", đại biểu Hoàng nói. Nhiều đại biểu đề xuất việc đổi mới cơ bản cơ chế tài chính cần được khẳng định ngay trong luật sửa đổi.
Đại biểu Trần Du Lịch: "Chúng tôi muốn làm sao luật này ra đời là động lực giống như khoán 10 trong nông nghiệp". Ảnh: Hoàng Hà. |
Đối với quy định về việc trích lập quỹ khoa học công nghệ, đại biểu Đỗ Văn Vẻ kiến nghị chỉ nên quy định là quyền chứ chưa phải là nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp bởi không phải tất cả doanh nghiệp đang hoạt động đều có nhu cầu về khoa học, công nghệ như nhau. Tuy nhiên, nếu quy định một chế tài bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho khoa học công nghệ với các tỷ lệ khác nhau thì cần áp dụng các biện pháp đồng bộ.
Bàn về đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học, đại biểu Phùng Đức Tiến cho rằng, Luật cần cụ thể hóa hơn nữa việc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, có chính sách cụ thể, tạo môi trường làm việc thu hút nhân tài, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Theo đại biểu Hoàng Thị Tố Nga, dù các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa XI) và các văn bản pháp luật luôn đề cao vai trò của nhân tài khoa học nhưng Việt Nam chưa có chính sách cụ thể nào...
Trong khi đó, đại biểu Trần Du Lịch cho rằng cần đặt lại vấn đề tiếp cận đối với dự án luật. Tiếp cận dự thảo luật này với tư cách là một người có 36 năm tham gia làm công tác nghiên cứu và quản lý khoa học, đại biểu này cho rằng, đối với Việt Nam muốn phát triển, muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và muốn không rơi vào bẫy thu nhập trung bình thì chỉ có con đường duy nhất là khoa học và giáo dục phải thành động lực thực sự.
"Với yêu cầu như vậy, tôi cho rằng dự thảo luật chưa đủ sức để làm điều đó như trông đợi của Đảng xem khoa học công nghệ là quốc sách. Chúng tôi muốn làm sao luật này ra đời là động lực giống như khoán 10 trong nông nghiệp, giống như Luật doanh nghiệp năm 2000 ra đời là cả xã hội phát triển doanh nghiệp", ông Lịch nêu quan điểm.
Để trả lời câu hỏi này, đại biểu Lịch đề nghị đưa một chương mang tên "Huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển khoa học, công nghệ", với tất cả chính sách cụ thể nếu huy động được. Điều này quan trọng hơn là bàn về cách quản lý của nhà nước, về ngân sách nhà nước bởi "cách tiếp cận của ta vẫn là làm sao chia 2% ngân sách (dành cho khoa học công nghệ) cho tốt".
Ngoài ra, cần thay đổi phương thức nhà nước tài trợ cho khoa học, công nghệ, chứ không bao cấp; phải làm sao 70% nguồn lực là từ xã hội và 30% từ Nhà nước thì khoa học công nghệ mới thành công.
Với những ý kiến phong phú của các đại biểu, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, đây là cơ sở để Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý và sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 5 vào giữa 2013.
Theo đại biểu Huỳnh Minh Hoàng, cả nước có trên dưới 1.600 tổ chức hoạt động khoa học, công nghệ. Trong đó có 2 viện nghiên cứu quốc gia; 433 tổ chức hoạt động khoa học công nghệ thuộc các bộ, ngành; 340 tổ chức khoa học công nghệ thuộc các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, viện nghiên cứu này chưa cao, nhiều chồng chéo trong chức năng và thực hiện nhiệm vụ. "Chúng ta chưa thấy những sản phẩm nào có sự cạnh tranh cao, đầu tư cho hoạt động khoa học của chúng ta rất dàn trải", ông Hoàng nói. Nói về tính tự chủ, sự chủ động trong sáng tạo của các nhà khoa học Việt Nam, đại biểu Ngô Đức Mạnh cho biết: "Từ năm 2000 - 2007, khoa học Việt Nam chỉ có 19 sáng chế. Năm 2011 Việt Nam không có một bằng sáng chế nào được đăng ký ở Mỹ, trong khi đấy số dân chưa đầy 5 triệu người thì Singapore đã có 647 bằng sáng chế". |
Nguyễn Hưng