Author] -
Nơi đây, nơi mà tất cả những con đường phôi thai đều chết non khi chưa kịp chào đời
Chưa kịp khóc lên những dấu chân người ngớ ngẩn
Chết, chết thật êm trong vầng cỏ dại bọc quàng thân thể đất nâu
Khô, khô sẫm vào trong một linh hồn
Nơi mà tôi lùi sâu mê man, một hang đá lạnh u trầm là chính tôi thừa thãi
Nơi cứ mỗi chiều chiều nắng ngất trên những ngón lá xanh nhọn đầy vô vọng
Tôi lần ra hú gọi một tên người, một tên người không âm sắc, không có thật
Một tên người mang mang như một nhịp điệu đơn buồn đã làm nên tôi sơ thủy
Tiếng hú vơ lẫn hòa vào khúc hát cổ xưa rã rời của những đám mây và bầy lá mục...
(Lửa sâu cõi đá)
Tôi trả lời Chánh: "Thực tình tôi cũng chẳng biết y là ai! Nghe nói từng đậu thủ khoa trường Đại học Kinh tế Tài chính. Sau đó bỏ dở chừng 4, 5 trường nữa để chỉ làm thơ. Y có tìm đến chơi một thời gian nhưng tôi không chịu nổi. Đây là tất cả những gì y bỏ lại sau lần gặp gỡ địa ngục ấy!". Mà thật, sau khi đọc, Chánh chịu. Một tay chơi thơ khí lực và khí hậu [2] như anh mà "chịu", quả là không đơn giản. Anh liên tục hỏi thăm tôi địa chỉ liên lạc của y nhưng tôi không biết. Y đã mất tích khỏi Sài Gòn. Nhiều thông tin thất thiệt về y đúng sai không rõ, nhưng bấy nhiêu cũng đủ làm lao đao một số phận. Những bài thơ cứ nằm im trên giấy chứa đựng một tâm hồn, một oan hồn.
Nhưng đích cuối của cuộc tìm kiếm hình như vẫn còn đó: Thơ hay.
* * *
Giữa năm 95, sau giải thưởng thơ Bút Mới của báo Tuổi Trẻ, một buổi chiều có người đến tìm tôi. Ngày ấy chúng tôi là sinh viên giàu khát vọng nghệ thuật. Người ấy vừa đoạt giải thưởng với bài thơ tôi đã quên gần hết, chỉ nhớ một câu kỳ khôi: "Trong giấc mơ có ngàn con bướm chết / Triệu cánh tàn lả tả mái hiên hoa". Y tự xưng tên là Vương Huy.
Huy có gương mặt dài và buồn như Albert Camus. Dáng người cao khỏng. Những ngón tay gầy kẹp hờ điếu thuốc, khói tỏa mù. Một nhân dáng trầm tư kiểu Auguste Rodin[3], dễ khiến kẻ đối diện ngay lần gặp gỡ đầu tiên đã liên tưởng đến câu nói này: "Vâng, tôi sẽ chết vào năm bốn mươi tuổi khi đã lỡ bắn vào ngực mình viên đạn từ tuổi hai mươi"[4]. Huy ít nói. Uống nhiều. Như cháy lên trong rượu. Mà thứ rượu ngày ấy chúng tôi uống là thứ rượu rẻ tiền có màu đỏ như máu, gọi là rượu Bông Cúc. Bán rất nhiều bên chợ Thị Nghè, ga Bình Triệu và dưới chân cầu Sài Gòn. Thường vẫn ghi sổ nợ. Thời sinh viên mà! Tôi chưa gặp con người nào tài hoa nhường ấy. Mỗi câu nói, mỗi dòng viết thắm đượm một mối tình thủy chung đến nghiệt ngã với lẽ sống hào hoa mà cũng tràn đầy bạc bẽo. Giữa hai chúng tôi là hố thẳm của những xung đột lớn. Mà người thường hòa giải là Phan Bá Thọ. Có lẽ nhờ vậy mà còn nhiều tâm trạng để viết về nhau. Tình bạn của chúng tôi như câu nói của Heraclitus: "Sự kết nối được giấu kín thì mạnh hơn sự kết nối rõ ràng".
Bây giờ tôi vẫn nhớ hình ảnh chàng thi sĩ cao gầy đi ngược gió Sài Gòn lúc trào hứng trong cơn say, lảm nhảm: "Tao sẽ giết chết Phạm Công Thiện! Tôi sẽ giết chết Phạm Công Thiện!"[5]. Hình ảnh đó thât đẹp! Ồ, nhưng cỡ ông Thiện làm sao mà Huy giết được! Ông đã giết bao nhiêu người thì có, giết luôn cả Huy, chứ ai mà giết được ông! Sau này tôi mới nhận ra Thiện lớn cỡ nhường ấy. Còn nhớ lần gặp lại nhau sau ngày mẹ tôi mất. Chúng tôi tranh luận với nhau về định mệnh và bi kịch. Tôi cho rằng tôi đang có bi-kịch-lớn. Bi kịch của tôi đang lớn-hơn-bi-kịch của những người đang ngồi đây. Huy ngửa mặt lên trời cười to, mà rằng: "Minh à, đã gọi là bi kịch thì không có bi kịch nào lớn hơn bi kịch nào! Mỗi chúng ta khi sinh ra đời đều đã chuốc lấy một bi kịch rồi!". Đó là giọng của một gã hiện sinh học đòi Jean-Paul Sartre. Thấy ghét! Nhưng tôi đã hoàn toàn bất ngờ khi nghe nó dội lên giữa đêm khuya trong âm sắc phai nhợt của rượu. Về sau tôi mới biết gia đình Huy phá sản. Mẹ Huy bị bắt ở tù. Nhà Huy đột ngột phải bán để trả nợ. Huy đang học ở Sài Gòn đành phải bỏ dở quay về Cai Lậy.
"Tôi đã nốc cạn bầu thơ đẹp bao nhiêu năm lạ lẫm hoang đàng
Tôi trôi chảy trong tiếng cười nhợt tím
Một căn phần cay đắng
Tôi đã biết đùa quên những phiến trăng đầy khuyết cho tan vào đêm sâu của nó và thức tỉnh muộn màng cơn buồn ngủ sự sống trong tôi
Tôi đã hớp ngon từng ngụm tuyệt vọng lạnh căm trước khi nó hụt dần mùi hương đẹp đắm
Một mặt trời thứ nhất mọc lại trong tôi mù sương lạnh cóng
Trước ngưỡng trời mắt đứng
(Hai bài không đề)
"Không có bi kịch nào lớn hơn bi kịch nào! Mỗi người sinh ra đã chuốc lấy bi kịch rồi!". Mỗi lần nhớ Huy, câu nói ấy vọng về trong tôi. Tàn cuộc, tôi đọc thơ Huy như thấy chực chờ ở đâu đó gương mặt gớm ghiếc hung hiểm của định mệnh. Với Huy, "cá tính của một người còn là số phận của con người ấy" (Heraclitus). Nhiều câu chữ như bộc phá, ngòi nổ ghim sẵn đâu đó trong rỗng thể tương lai chỉ còn chờ đợi đúng giờ ngày là nổ tung, là văng mảnh.
Chỉ một tiếng rít khô đủ khép lại con đường
Con đường mọc lô nhô những cái nhìn
Con đường làm bằng hơi thở nối vào nhau ngút ngát
Con đường với mặt trời treo lên ngày với mặt trăng móc vào đêm
Ta bước đi với một bánh xe quay tít trong đầu
(Khung cửa tím)
Hố đêm mở cánh
đóa hoa đen của đất
đón anh vào trong choáng váng mùi hương
hương sự sống hay là hương nỗi chết
chỉ còn ống sáo trên tay nhưng nhức mảng trời đêm trên đầu
anh hát buồn vui của sóng
những buồn vui bát ngát phận người
anh chỉ còn tiếng sáo hoang vu thổi cạn những ngày còn lại
một mẩu linh hồn trong đất đá lặng thinh
bay về đâu khúc ca đầy mùi nhớ
bay về đâu tiếng thở của ngàn năm
bay về đâu những giấc mơ đập cánh nhưng thiên đường đã mất
anh thổi những ngày mai không có nữa bao giờ
cho anh thêm đời nữa ngày nữa lần nữa...
(Tiếng sáo hố thẳm)
* * *
Trở lại thế giới thơ của Vương Huy. Người Huy chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, theo tôi, chính là Phạm Công Thiện. Như trên tôi đã kể, trong đời làm nghệ thuật của mình, Huy chỉ mơ ước giết chết Phạm Công Thiện. Nhưng như thế, nếu chỉ kể là thơ thì Huy đã thành công rồi. Tôi khẳng định một điều: thơ Vương Huy hay hơn, độc sáng hơn thơ Phạm Công Thiện. Bởi cần lưu ý, Phạm Công Thiện có làm thơ nhưng theo tôi, thơ của ông Thiện là vứt đi. Tôi không thể chịu nổi một tâm hồn uyên áo, kỳ dị như ông Thiện mà lại viết những câu thơ "hiện thật" kiểu như "Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn / Cây khế đồi cao trổ hết bông". Nói chung, thơ ông Thiện chỉ trên thơ tán gái một chút, là thứ thơ vớ vẩn. Vì thế, nói Vương Huy ảnh hưởng Phạm Công Thiện chính là ảnh hưởng Hố thẳm tư tưởng, Mặt trời không bao giờ có thực, Thời của kẻ giết người [6]... hay tinh thần Ngày sinh của rắn[7]. Nhiều người viết về ông Thiện nhưng không ai chú ý ông Thiện rất muốn trở thành một nhà thơ nhưng cuối cùng chỉ có thể là một nhà thơ thất bại. Lối hành văn hoang dại và hoang lộng của ông chứng minh điều đó. Những câu văn của Thiện thường không có xương sống và tràn đầy cảm tính. Dân triết gia "thứ xịn" không ai chọn kiểu đó. Với cách lập luận kiểu "chuỗi ý thức" mà Phạm Công Thiện đặt ra, đầu tiên cũng như cuối cùng, chỉ để tách biệt hẳn con người nghệ sĩ ra khỏi con người xã hội. Đã sáng tạo, đã viết thì bất kể mọi cơn cớ. Toàn triệt và dấn thân cho Nghệ Thuật. Đó là ý thức tự vấn, ý thức bất nhị, ý thức giải phóng, ý thức siêu thoát, ý thức bất diệt, ý thức sinh tồn, ý thức thể hiện, ý thức siêu thực, ý thức chấp nhận, ý thức siêu thể... Để từ đây chuyển qua ý thức tự diệt, ý thức bi tráng, ý thức tuyệt vọng, ý thức cô lập, ý thức khắc khoải, ý thức hư vô, ý thức khước từ, ý thức thoát ly...Cuối cùng dẫn đến ý thức tự quyết. Cũng như Phạm Công Thiện, Kazantzakis tóm gọn: "Nhiệm vụ của mi là hãy lên đường đi đến hố thẳm một cách im lặng". Hay như Jean-Paul Sartre: "Hắn không nắm giữ vai trò gì quan trọng trong tập thể. Chỉ vừa vặn là một cá thể"[8] Vương Huy chịu ảnh hưởng trong thơ quá sâu đậm bởi tinh thần ấy, và tình nguyện trở thành một "đồ đệ" của Phạm Công Thiện, theo tôi, có hai lý do: 1- Phạm Công Thiện là người gốc Mỹ Tho, Tiền Giang, cùng quê với Huy; Huy luôn tự hào về điều này, và 2- Đó cũng là lẽ thường tình. Tài hoa quái dị như ông Thiện đã từng "giết chết" bao người trai trẻ, nhất là những người mang ý hướng dấn thân, cách tân văn chương. Thiện khiến tâm hồn họ cuồng quay trên gió loạn. Chúng ta thử khảo sát xem một vài nhận định mà Phạm Công Thiện đã viết về thời xuân xanh và ý niệm tuổi trẻ. Theo ông, tuổi trẻ nên xác định giới hạn từ 15 tuổi đến 25 tuổi. Là vì dưới 15 tuổi chúng ta hãy còn ngây thơ và quá 25 tuổi thì người ta bắt đầu hơi cằn cỗi và bắt đầu đi vào thế giới người lớn, nghĩa là đầu hàng cuộc đời. Thế giới người lớn là thế giới nghĩa địa, thế giới chết, thế giới ma quái ngu dại...[9]
Tại sao thế giới người lớn lại là thế giới chết, ma quái và ngu dại? Thiện tư biện, bảo, tại vì " Các ông tự cho là các ông khôn ngoan, chín chắn, kinh nghiệm!"(!)[10]Và sẵn sàng bày tỏ một thái độ khinh bỉ, không khoan nhượng: " Chúng tôi không cần những thứ ấy và chúng tôi cũng không đụng chạm gì những thức ấy; vì thế chúng tôi lễ phép xin các ông hãy trả thế giới hồn nhiên cho chúng tôi; đừng làm điếc tai chúng tôi với những tiếng thối nát như "khôn ngoan", "chín chắn", "kinh nghiệm". Chúng tôi không cần kinh nghiệm. Kinh nghiệm là gì nếu không phải là những thói quen mà các ông đã bám vào đó để bảo đảm cái thân người hèn mọn nô lệ của các ông?[11]
Không chỉ dừng lại ở đó, Thiện chối bỏ "Đối với chúng tôi các ông (chỉ thế giới người lớn) đã chết. Và bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải sống, phải đứng thẳng nhìn đời với nỗi niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình".[12]
Cách đặt vấn đề về mục đích của cuộc đời của Thiện cũng khá độc địa: "Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc, luân lý đạo đức. Cuộc đời thực sự không phải là những ông công an, những ông cảnh sát, những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là chúng tôi, là tuổi trẻ..."
Và từ đây Thiện chỉ ra hướng con đường văn nghệ mới, rũ bỏ (hay xóa sạch) toàn triệt những giá trị cũ : "Đau buồn không phải là mái nhà đang đổ vỡ; đau buồn là chúng tôi đã ngu dại để chờ những người chết (thế giới của người lớn) xây dựng lại; những người chết là chết hẳn; chỉ có chúng tôi (chỉ những người tuổi trẻ) là xây dựng lại thôi, chỉ có những người sống là thổi sức sống vào thế giới điêu tàn này...". [14]
Ngày ấy trong những cơn say Huy đòi giết chết Phạm Công Thiện là vì thế. Là vì Thiện phán hay quá, trúng quá mà Huy quên rằng đó chỉ là những cái hay trên giấy, trên lý thuyết trong cái đầu đen đặc ý tưởng, đan bện chằng chịt như một bộ rễ khổng lồ nhưng cũng hoang vu lau lách, bạt ngàn cỏ dại của Thiện. Thiện viết bi tráng giữa một thời loạn. Trên thất bại và tuyệt vọng của cuộc đời ông. "Et tu bois cet alcool brûlant comme ta vie / Ta vie que tu bois comme une eau-de-vie".[15]. Rồi vì tuổi trẻ của Huy gặp quá nhiều thử thách, hoạn nạn. Huy đã xem Thiện như một cứu cánh. Là đốn ngộ, giải thoát. Huy biến Thiện thành một cái phao và cả hai bập bênh cuốn xoáy vô vọng trên biển cả. Huy viết, dễ dàng tìm thấy "ám chướng" của Thiện:
Tôi bỏ bóng đuổi theo điều gì như sự thật
Thủy tinh xanh
Tâm bệnh thơ hành
Bỏ trường lớp bỏ đám đông
Tôi học niềm cô đơn hoang vu
Tôi học ở rượu
Tôi học sự lãng quên
Chỉ một điều bập bềnh vong tánh
Mong hiểu lại một lỗi lầm đơn dị
Tôi yêu đời nhưng đời cũng yêu tôi
Nên tôi chán làm một con người thực sự
(Nhật kí trong quán)
Hay ở một đoạn khác:
Những ngày đen những ngày đen
Tôi trầm xuống một vũng sách mở phơi như vết loét tinh thần
Tôi làm hạt bụi
Mong tìm lại những miếng trời mơ tưởng có mây trôi có nắng rất hiền
Mong tìm lại những tay những chân đã rơi đã rã tự muôn niên
Khi lòng chạm tận đáy bùn ngập ngụa
Tôi lờm lợm
Vâng, những quyển sách học đường chỉ đáng xem như đầu gối
Rất cần cho những kẻ lết quỳ mong tìm chỗ dung thân
(Nhật kí trong quán)
( Còn nữa)