Nguyễn Thị Minh Thái
Thi sĩ Xuân Diệu quả là ông hoàng của thơ tình Việt ngay từ thuở đầu phong trào Thơ Mới, khi đưa ra một nhận xét thập phần tinh tế, một phát hiện độc đáo về Nguyễn Đức Hiền - nhà văn, tác giả cuốn sách lấp lánh rất đáng đọc này.
Sự “tương liên” ở đây, thật thú vị, vì đã không chỉ xảy ra với một mình Xuân Diệu. Tôi đồ rằng ngay từ thuở niên thiếu, tôi đã cùng bạn bè tuổi thơ mê đắm đọc sách này và bây giờ, vào tuổi trung niên, mùa thu cuộc đời, bồi hồi đọc lại, mới thấu suốt nhận xét của Xuân Diệu thật chí tình, chí lý.
Cuốn sách đã lay động tâm thức của nhiều lứa tuổi bạn đọc, dù thoạt đầu, được mặc định chỉ viết cho bạn đọc tuổi hoa. Sau đó, và cho tới hôm nay, kể cả khi tác giả Nguyễn Đức Hiền đã về bên kia núi, cuốn sách như còn xanh mãi với thời gian, từng được tái bản hàng chục lần cho Tủ sách Vàng dành cho thiếu nhi của NXB Kim Đồng. Dường như chỉ có thể cắt nghĩa điều lý thú này bằng lý do giản dị: “Sao Khuê lấp lánh” đã nối liền được các thế hệ độc giả bằng một mối “tương liên” sâu sắc. Và phải khẳng định, không phải cuốn truyện lịch sử nào viết về danh nhân Việt cũng có thể đạt đến số phận đáng mơ ước ấy.
![]() |
Bìa cuốn sách "Sao Khuê lấp lánh" của Nguyễn Đức Hiền. |
“Sao Khuê lấp lánh” sở dĩ có được mối tương liên đặc biệt ấy, trước hết là nhờ ở sự tinh tế khéo léo của Nguyễn Đức Hiền trong việc khai thác và xử lý chất liệu lịch sử từ bi kịch Lệ Chi Viên của Nguyễn Trãi, với cái án tru di tam tộc kinh hoàng và oan khuất nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Việt Nam suốt kỷ nguyên Đại Việt (nhất là khi cái án ấy thật đối nghịch với công lao trời biển của Nguyễn Trãi, vị tham mưu thiên tài cho sự nghiệp “bình Ngô” của Lê Lợi, và sau đó, chính vì thế mà Nguyễn Trãi trở thành vị quan đầu triều nhà Hậu Lê).
Khi xử lý tư liệu lịch sử về Nguyễn Trãi, Nguyễn Đức Hiền đã thông minh, tinh tường tìm được lối riêng, trong ứng xử rất sáng tạo đối với cấu trúc thời gian cho cuốn truyện lịch sử, theo cách độc đáo của mình. Ông không mô tả trực diện vụ án Lệ Chi Viên, mà chọn thời điểm lịch sử sau khi Nguyễn Trãi và cả ba thế hệ gia tộc của Nguyễn Trãi bị hành hình thảm khốc, để cốt xoáy sâu vào thân phận những học trò xuất sắc của thầy Nguyễn Trãi để lại cho đời. Những học trò này đã học và hành theo tư tưởng sáng ngời như ngôi sao Khuê của người thầy Nguyễn Trãi, đã biết nối nghiệp lớn của Nguyễn Trãi, đã biết giữ lòng hiếu trung như nhất với lý tưởng vì dân vì nước của Nguyễn Trãi, đã tìm mọi cách phục hưng đất nước qua cơn nhiễu loạn, đã gìn giữ giọt máu cuối cùng của dòng họ Nguyễn Trãi và đã đưa được vị vua anh minh Lê Thánh Tông lên ngai vàng trị vì đất nước, giải án oan lịch sử cho người thầy Nguyễn Trãi của họ… Và, cuốn sách khép lại trong một kết thúc rất có hậu của sự vận chuyển lịch sử do chính những học trò của Nguyễn Trãi lèo lái con thuyền nhà Hậu Lê cập bờ thành công.
Không phải ngẫu nhiên, nhân vật chính trong cuốn truyện lịch sử này đều là những thiếu niên đầu xanh tuổi trẻ, được cứu thoát, che giấu, được bảo vệ, nuôi dưỡng, trưởng thành trong lòng người nông dân Việt ở châu thổ Bắc Bộ, nhất là những tấm lòng mẹ Việt: vương phi Ngô Thị Ngọc Giao, mẹ của vua Lê Thánh Tông sau này, phu nhân Phạm Thị Mẫn của Nguyễn Trãi, người duy nhất thoát khỏi lưỡi hái tử thẩn “tru di tam tộc” với giọt máu cũng duy nhất thoát khỏi bi kịch ấy, là con trai Nguyễn Anh Võ (khi họa tru di xảy ra, Anh Võ vẫn còn nằm trong bụng mẹ)…
Song, nhân vật ngời sáng nhất của câu chuyện lịch sử này, được tác giả nâng niu thân phận văn chương nhất, chính là Lê Đàm - người học trò xuất sắc nhất của Nguyễn Trãi - đã hiện diện rực rỡ từ đầu đến cuối thiên truyện lịch sử.
![]() |
Chân dung nhà văn Nguyễn Đức Hiền. |
Nguyễn Đức Hiền đã minh chứng bằng văn chương Việt, trong một giọng kể chuyện lịch sử sang trọng, vừa từ tốn khoan thai vừa nồng nàn nhiệt huyết, khiến nhân vật chính Lê Đàm khắc sâu vào tâm trí người đọc. Và điều khắc sâu nhất chính là lòng hiếu hạnh với người thầy Nguyễn Trãi, không chỉ ở việc cưu mang vợ con thầy qua cơn hoạn nạn, mà cơ bản nhất, người học trò đáng giá này đã tiếp nối và khai minh được tư tưởng triết học của thầy đối với sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, luôn ghi lòng tạc dạ “những câu chữ của Nguyễn Trãi: “ Còn có một lòng âu việc nước/ Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”; “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”; “Bui có một lòng trung với hiếu/ Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”… (Dẫn theo “Sao Khuê lấp lánh”, tr.190, NXB Kim Đồng, 2007).
Tập trung ngọn đèn pha chiếu rọi vào nhân vật chính Lê Đàm, Nguyễn Đức Hiền không quên dựng cả một thế hệ đầu xanh tuổi trẻ đồng hành với Lê Đàm, trong đó có cả Thánh Tông hoàng đế, có Nguyễn Anh Võ, con trai còn sống sót duy nhất của Nguyễn Trãi, có Cao Nhuệ, cũng là môn sinh xuất sắc của Nguyễn Trãi… Không có những nỗ lực dời non lấp biển của thế hệ này thì không có một thời đất nước thịnh vượng thanh bình của vị vua hiền Lê Thánh Tông, nhà vua - thi sĩ sau này đã thành ngôi bá chủ hội thơ Tao Đàn “Nhị thập bát tú” do chính mình tạo lập. Và chính là vị vua đại hiền này, đã nối dài sự nghiệp thi ca của Nguyễn Trãi, theo cách của một tri âm tri kỷ, đã lắng tai Chung Kỳ mà hiểu thấu được hồn thơ Nguyễn Trãi.
Không phải vô tình mà Nguyễn Đức Hiền viết đoạn kết thúc “Sao Khuê lấp lánh” bằng những suy tưởng sáng suốt và trữ tình, gửi gắm sâu xa trong đoạn độc thoại của vua Lê Thánh Tông về Nguyễn Trãi: “Tâm hồn Khanh là một đại dương, ở đấy chứa đựng cuộc sống cả trời - mây - đất - nước muôn loài; ở đấy có sự gầm thét của bão tố và có cả sự êm ả mênh mông; ở đấy vừa đón nhận muôn dòng, vừa phân đi muôn ngả; ở đấy nước triều lên buổi sáng, nước triều rút buổi chiều, mặt trăng và mặt trời cùng gặp nhau đáy nước; ở đấy diễn ra cuộc sống một ngày cũng diễn ra cuộc sống muôn đời, muôn thuở…; ở đấy là bi ai, là hùng tráng, là vô cùng vô tận! Ôi! Nguyễn Trãi! Ức Trai tiên sinh! Gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự! Nhập nội hành khiển!Tán trù bá! Dẫn ra bao nhiêu chức tước, nghĩ ra bao nhiêu hình ảnh để nói về khanh cũng chưa xứng được vẻ đẹp cao cả của tâm hồn băng tuyết, của trái tim ĐẠI NHÂN ĐẠI NGHĨA”. (tr191, “Sao Khuê lấp lánh”).
Vua Lê Thánh Tông (cũng là nhắn gửi của Nguyễn Đức Hiền), sau độc thoại này, đã rất tương đắc với câu thơ mượt mà bóng bẩy của Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân, bạn đồng tâm, đồng khoa, đồng triều với Nguyễn Trãi, khi tả Nguyễn Trãi, đã ví ông như “một vị tiên gió thanh hây hẩy gác vàng, ung dung ngồi trong tòa ngọc”.
Nguyễn Đức Hiền đã tài hoa kết thúc cuốn sách của mình trong những hồi tưởng và suy tư đẹp đẽ nhất của vua Lê Thánh Tông, hướng về Nguyễn Trãi, như một thi nhân với một thi nhân, nên đã đặt nhân vật nhà-vua-thi-sĩ của mình vào thời điểm rất đẹp của khung cảnh thiên nhiên Việt:
“Bấy giờ vào tiết cuối xuân đầu hạ. Quang âm đang chuyển dần về sáng. Trời không trăng nhưng không gian trong suốt. Đứng trên lầu lộ thiên, nhà vua có thể nhìn bao quát khung cảnh khu Vườn Lệ Chi. Người lại bắt đầu xúc động (…).
Nhà vua hít một hơi thở thật dài. Gió từ mạn sông Thiên Đức thổi về mang theo mùi thơm mát lịm của những quả lệ chi vừa nở cùi chín rộ. Nhà vua sửa lại khăn áo và ngửa mặt nhìn lên bầu trời cao lồng lộng. Xa xa, về phương Nam, lấm tấm giữa những vì sao đêm, ngôi sao Khuê đang lấp lánh…
Bất giác hoàng thượng cao hứng ngâm vang:
'Ức Trai tâm thượng Quang Khuê tảo!'
(Tâm hồn của Ức Trai (Nguyễn Trãi) sáng biếc như ánh sao Khuê buổi sớm mai)". (Tr.192, “Sao Khuê lấp lánh”).
Một cái kết được viết bằng tiếng Việt thật đẹp và cũng thật lấp lánh của tác giả Nguyễn Đức Hiền cho câu chuyện lịch sử về nhân vật văn hóa vô song của đất Việt: Nguyễn Trãi. Và sau cái kết ấy và sau cả cuốn truyện lịch sử ấy, chính là sự tỏa sáng vẻ đẹp lấp lánh như sao Khuê của tiếng Việt, với 20 năm tâm sức của tác giả đã đổ ra cho việc hoàn tất cuốn sách này. (Theo chú dẫn của chính tác giả cho sách của mình: “Viết lần đầu, mùa vải 1965 tại Hoằng Lộc. Sửa lại, cùng mùa, năm 1985 tại Hà Nội”.)
Hẳn nào cứ đến mùa vải chín, nghe chim tu hú kêu ở châu thổ Bắc Bộ, bao bạn đọc Việt lại hoài nhớ ánh lấp lánh của sao Khuê - Nguyễn Trãi và tấn bi kịch lịch sử Lệ Chi Viên…
Tháng 3 năm 2012 Hà Nội còn Rét nàng Bân