Giữa tháng 6, bà Liên, 48 tuổi, ở Tiền Giang được đưa vào khoa cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM trong tình trạng chân trái đau nhức, chuyển sang màu xanh tím và phù căng cứng từ bàn chân lên đến vùng đùi. Trước đó 10 ngày, chân trái của bệnh nhân bắt đầu xuất hiện phù, mức độ phù và đau ngày càng tăng.
Kết quả siêu âm mạch máu và chụp cắt lớp cho thấy các tĩnh mạch sâu ở chân trái bệnh nhân bị tắc nghẽn hoàn toàn do huyết khối, lan rộng từ các tĩnh mạch nhỏ ở cẳng chân đến tĩnh mạch lớn ổ bụng. Bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch sâu cấp tính thể nặng, có nguy cơ hoại tử chân nếu không điều trị kịp thời. Hình ảnh chụp cắt lớp còn cho thấy một đoạn tĩnh mạch ở vùng bụng của bệnh nhân bị hẹp nặng ngay vị trí bắt chéo với một động mạch khác.
Ê kip bác sĩ khoa Phẫu thuật Mạch máu đã tiến hành giải phẫu lấy huyết khối trong lòng tĩnh mạch của bệnh nhân, sau đó nong bóng và đặt stent sửa chữa đoạn tĩnh mạch chậu bị hẹp. Hình chụp kiểm tra sau đó cho thấy không còn huyết khối trong lòng tĩnh mạch, vị trí tĩnh mạch chậu bị hẹp đã được mở rộng, máu chảy về tim một cách dễ dàng. Hiện tại sức khỏe của bà Liên đã ổn, tình trạng đau và phù chân phục hồi đáng kể. Bệnh nhân đã xuất viện.
Theo Thạc sĩ, bác sĩ Lê Thanh Phong, Trưởng đơn vị Phẫu thuật Mạch máu, huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới là một bệnh nguy hiểm rất thường gặp, có biểu hiện lâm sàng đa dạng từ không triệu chứng đến đau chân, da chuyển màu xanh tím, phù căng, thậm chí hoại tử tĩnh mạch. “Biến chứng trầm trọng nhất của bệnh là thuyên tắc động mạch phổi, có thể gây đột tử. Nếu không điều trị sớm, về sau người bệnh có nguy cơ cao bị suy tĩnh mạch hậu huyết khối gây đau nhức và lở loét không lành, làm giảm chất lượng cuộc sống", bác sĩ Thanh Phong nói.
Ở nước ta, từ trước đến nay, bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu thường được điều trị bằng phương pháp kháng đông. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trên thế giới, những bệnh nhân chỉ điều trị bằng kháng đông, 5 năm sau có đến 90% bị hội chứng hậu huyết khối, 40% xuất hiện cơn đau cách hồi tĩnh mạch và 15% sẽ chuyển thành lở loét ở chân. Chất lượng cuộc sống cũng giảm đi một cách đáng kể ở những người bị hội chứng hậu huyết khối.
Thạc sĩ, bác sĩ Trần Minh Bảo Luân, giảng viên bộ môn Phẫu thuật Lồng ngực - Tim mạch, Đại học Y Dược TP HCM giải thích thêm: "Hội chứng hậu huyết khối xuất hiện là do huyết khối cấp không được lấy đi gây tắc hẹp tĩnh mạch mạn tính, biểu hiện bằng tình trạng đau chân, phù, thay đổi sắc thái da ở cẳng chân và lở loét chân không lành. Ngoài ra, những bệnh nhân điều trị nội khoa đơn thuần còn có thể bị huyết khối tĩnh mạch cấp tái phát dai dẳng cùng, nguy cơ cao dẫn đến thuyên tắc phổi".
Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM là đơn vị đầu tiên trong cả nước áp dụng thành công phương pháp phẫu thuật kết hợp với can thiệp nội mạch để điều trị huyết khối tĩnh mạch cấp cho bệnh nhân phù hợp. Khi phẫu thuật can thiệp lấy huyết khối thành công, các đoạn tĩnh mạch tắc hẹp được sửa chữa bằng cách đặt stent, nhờ đó dòng chảy được hồi phục và bảo tồn các van. Nhờ đó chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được cải thiện đáng kể, khả năng huyết khối tĩnh mạch tái phát giảm xuống đồng nghĩa với giảm nguy cơ thuyên tắc động mạch phổi.
Theo bác sĩ Bảo Luân, huyết khối tĩnh mạch sâu cấp tính nếu được phát hiện sớm trong vòng 2 tuần có thể được loại bỏ bằng biện pháp can thiệp nội mạch, phẫu thuật hoặc phối hợp cả hai. Can thiệp nội mạch giúp cho phẫu thuật thực hiện dễ dàng và kiểm tra hiệu quả hơn, bên cạnh đó còn giúp phát hiện và sửa chữa những thương tổn tắc hẹp của tĩnh mạch bằng cách nong bóng và đặt stent.
Y văn thế giới ghi nhận, trong trường hợp bệnh nhân bị hẹp, tắc tĩnh mạch chậu hoặc còn sót một phần huyết khối trong lòng tĩnh mạch không lấy đi được, việc nong bóng đặt stent tĩnh mạch sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ huyết khối tái phát.
Thống kê ở Mỹ ghi nhận, mỗi năm có 130.000 trường hợp bị huyết khối tĩnh mạch sâu trên tổng số 100 trăm triệu dân. Theo bác sĩ Thanh Phong, ở nước ta tuy chưa có nghiên cứu dịch tễ học về bệnh này nhưng trong thực hành y khoa, đây là một bệnh rất thường gặp. Có 3 nguyên nhân chính tạo nên huyết khối tĩnh mạch sâu. Thứ nhất là tình trạng tăng đông máu, thường gặp sau phẫu thuật, chấn thương, nhiễm trùng, ung thư hay bệnh tăng đông máu di truyền. Thứ hai là tình trạng ứ đọng tĩnh mạch và cuối cùng là các tổn thương nội lòng tĩnh mạch.
Những yếu tố nguy cơ gây bệnh này gồm: Tiền sử bản thân người bệnh và gia đình bị huyết khối tĩnh mạch, mắc bệnh ác tính, đang điều trị ung thư như hóa trị, xạ trị hay điều trị nội tiết tố, có thai, hậu sản, đang sử dụng thuốc ngừa thai có chứa Estrogen, sử dụng thuốc nội tiết tố thay thế, nằm bất động kéo dài...
Bác sĩ Phong cho biết thêm, về cơ bản có 2 phương pháp phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch tái phát sau phẫu thuật. Thứ nhất là biện pháp cơ học (vận động sớm sau mổ, tập vật lý trị liệu gấp duỗi cổ chân ở những bệnh nhân bất động, gác chân lên cao, mang vớ áp lực, mang vớ hơi áp lực ngắt quãng nhằm giúp giảm tình trạng ứ đọng tĩnh mạch). Thứ hai là sử dụng thuốc kháng đông làm giảm khả năng đông máu. Các biện pháp này có thể áp dụng riêng hay kết hợp tùy từng trường hợp cụ thể.
Thi Ngoan
* Tên bệnh nhân đã được thay đổi