![]() |
Ảnh: BBC. |
Đi tiểu là một phản xạ thần kinh, khi bàng quang căng đầy nước tiểu thì hệ thần kinh chỉ huy bàng quang co bóp để tống nước tiểu ra ngoài. Hầu hết trẻ lớn thì tiểu tiện là một hiện tượng sinh lý kiểm soát được; do hệ thần kinh đã phát triển nên trẻ nhịn đái được lúc đang ngủ. Nhưng có một số trẻ chỉ nhịn được lúc thức, ban đêm trẻ chưa nhịn được gây nên đái dầm. Khi trẻ lớn lên, hệ thần kinh sẽ hoàn thiện và trẻ có thể nhịn đái lúc đang ngủ.
Đái dầm là chứng tiểu không tự chủ lúc đang ngủ, có thể gặp cả ở người lớn. Có hai loại đái dầm:
Đái dầm nguyên phát: Trẻ đái dầm có từ lúc nhỏ, liên tục trong tất cả các đêm (có khi đái dầm cả lúc ngủ ban ngày), thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi và chiếm khoảng 15-20%.
Đái dầm thứ phát: Trẻ đã có thời kỳ không còn đái dầm nhưng sau một thời gian vì lý do nào đó mà tái phát, thường gặp ở lứa tuổi từ 5 đến 12, chiếm khoảng 3-8%. Bên cạnh đó, một số trẻ tuy đã lớn (thậm chí đã ở tuổi trưởng thành) nhưng vẫn mắc chứng đái dầm, loại này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 2-5%.
Nguyên nhân gây đái dầm
Về cơ chế bệnh sinh, đến nay còn nhiều điều chưa được sáng tỏ bởi việc kiểm soát tiểu tiện còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy vậy, những yếu tố thường liên quan đến đái dầm là: khả năng phát triển của bàng quang không tốt, bàng quang quá nhỏ, hệ thần kinh chưa phát triển, chưa hoàn thiện...
Một số vấn đề sau đây cũng làm gia tăng chứng đái dầm:
Tâm lý căng thẳng: Trẻ bị đái dầm hay bị mặc cảm, xấu hổ, nhất là trẻ trên 10 tuổi. Cha mẹ hoặc các thành viên trong gia đình nếu cứ quát tháo, trêu chọc trẻ (hoặc cho nhiều người biết về chứng đái dầm của con mình, cháu mình) thì sẽ làm cho trẻ căng thẳng thêm, có khi chứng đái dầm lại tăng lên.
Nhiễm trùng đường niệu: Trẻ em gái gặp nhiều hơn do đặc điểm cấu tạo của niệu quản, nhất là khi vệ sinh kém. Bệnh viêm bàng quang là loại hay gặp nhất trong nhiễm trùng đường tiết niệu do viêm ngược dòng. Vì vậy khi trẻ đái dầm (nhất là trẻ em gái), cần xem xét kỹ có bị bệnh viêm bàng quang hay không.
Cách xử lý
Đối với trẻ dưới 5 tuổi bị chứng đái dầm, cha mẹ không nên quá lo lắng. Không cần cho trẻ đi khám bác sĩ mà cần giúp đỡ trẻ đái tự chủ, ví dụ như không nên cho uống nhiều nước trước khi đi ngủ. Nên đánh thức trẻ dậy đi tiểu vào những giờ cao điểm mà cháu thường đái dầm. Không la rầy, dọa nạt hoặc trêu chọc trẻ.
Nếu trẻ đã lớn và gia đình đã làm hết cách mà trẻ vẫn đái dầm thì nên cho đến bệnh viện để thử nước tiểu, siêu âm, chụp đường niệu. Thày thuốc sẽ có chỉ định điều trị thích hợp tùy theo từng loại bệnh gây ra đái dầm. Bên cạnh đó, nên động viên, giúp đỡ trẻ, không nên để cháu có mặc cảm, xấu hổ, nhất là trẻ đã lớn, nhằm tránh căng thẳng thần kinh.
Đã có một số loại thuốc tây y chữa đái dầm nhưng cần được sự chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. Về Đông y cũng có nhiều bài thuốc hay.
Bài thuốc sau vừa đơn giản, dễ tìm, rẻ tiền vừa có hiệu quả cao (80-90%, nếu không bị viêm nhiễm, dị tật về bàng quang hay chít hẹp bẩm sinh): Gừng tươi 30 g; phá cố chỉ 12 g, phụ tử chế 6 g. Phụ tử và phá cố chỉ tán thành bột và trộn đều rồi cho gừng vào giã nát thành dạng cao, đắp vào rốn, cố định bằng băng vải, vài ngày thay một lần.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)