Là thành viên đội dân công hỏa tuyến, năm nay bà Nguyễn Thị Ngọt đã 90 tuổi, vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Giữa tháng 7, bà lại rời nhà ở xã Thiệu Nguyên, huyện Thiệu Hóa, cùng đoàn cán bộ, thân nhân liệt sĩ vượt chặng đường gần 150 km đến hang Co Phương thắp hương tưởng niệm đồng đội.
"Cứ nhớ về Co Phương là tâm trí tôi như bị hối thúc. Lần nào đặt chân đến mảnh đất linh thiêng này tôi đều bật khóc...", bà Ngọt nói, cho hay vẫn nhớ như in trận mưa bom không quân Pháp trút xuống lúc 15h ngày 2/4/1953 khiến mãi mãi mất đi 11 người bạn trong tiểu đội.
Đầu năm 1953, hưởng ứng lời kêu gọi "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng'' quân Pháp, già trẻ gái trai ở các địa phương xung phong lên đường làm nhiệm vụ, trong đó có quê hương Thiệu Nguyên (trước đây là xã Di Tân) của bà Ngọt. Trai tráng đủ sức khỏe thì trực tiếp cầm súng ra mặt trận hoặc đi thanh niên xung phong, số yếu hơn thì đăng ký đi dân công hỏa tuyến. Năm đó bà Ngọt 19 tuổi, gần như trẻ nhất xã vào đoàn dân công tiếp vận.
Sau bữa cỗ gia đình đúng rằm tháng giêng, bà cùng chú ruột và hai anh rể tập trung về xã Thiệu Viên học tập nội quy, hai ngày sau thì lên đường hướng về khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Đoàn dân công hỏa tuyến gồng gánh tư trang, lương thực đi bộ 21 ngày thì đến xã Vạn Mai, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Đoàn người ngày nghỉ đêm đi để tránh quân thù dóm ngó. Đường bộ hầu như không có, họ men theo lòng suối mà đi về miền ngược.
Đơn vị C1, trung đội 1, tiểu đội 1 của bà Ngọt gánh đá, làm cầu ở Vạn Mai tròn một tuần thì nhận lệnh xuôi xuống tiếp tục gia cố, sửa chữa cây cầu ở bản Sại, xã Phú Lệ, huyện Quan Hóa, để bộ đội hành quân ra chiến trường Thượng Lào, Điện Biên Phủ... "Chúng tôi dựng lều lán ven rừng để ở, hái rau rừng ăn cùng cơm muối rang mỡ. Ban ngày đội trú ẩn ở hang Co Phương, đêm xuống lao động với cây đèn dầu thắp trong chai sành, ánh sáng lập lòe mờ ảo...", bà kể.
Hang Co Phương hay còn gọi là hang Co Phường, rộng chừng 20 m2, nằm dưới chân núi Pố Há, xã Phú Lệ, huyện Quan Hóa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là chiến dịch Thượng Lào và Điện Biên Phủ năm 1954, nơi đây vừa là kho, trạm quân lương, nơi trú quân vừa là điểm trung chuyển quân lương của bộ đội lên chiến trường Tây Bắc phục vụ chiến dịch.
Để chặn tuyến đường huyết mạch này, thực dân Pháp tìm mọi cách bắn phá nhằm chia cắt sự tiếp viện của hậu phương cho tiền tuyến. Chiều 2/4/1953, 13 dân công (gồm 9 nữ và 4 nam) trong đơn vị của bà Ngọt trú ngụ trong hang Co Phương. Họ trải chiếu ngồi hát cho nhau nghe để quên đi thời gian và bom đạn. Bà Ngọt không tham gia văn nghệ mà ra cửa hang ngồi xem người anh tên Nhượng đan rổ, chuẩn bị đi hái rau rừng nấu bữa ăn chiều.
Khoảng 15h, 6 máy bay Pháp kéo đến. "Máy bay cào cào cứ ba cái đi một lượt, thả bom như ném hoa chuối", bà Ngọt nhớ lại. Cả vùng rừng núi khi đó rào rào đá đổ xuống từ sườn núi, bụi bay mịt mù. Trong giây phút hoảng loạn, bà Ngọt cùng một đồng đội nam hò nhau lao về cửa hang khác cách đó chừng 100 m.
Chập tối, khi máy bay Pháp lui về căn cứ, chỉ huy đơn vị tổ chức hội quân điểm danh. Chờ đợi mãi không thấy những người trong hang Co Phương trở ra, bà Ngọt mới biết 11 đồng đội đã hy sinh. Đêm đó, toàn bộ dân công hỏa tuyến của xã Thiệu Nguyên được cho về quê, nhưng thiếu mất 11 người (8 nữ, 3 nam), trong đó có hai phụ nữ đang mang thai.
11 liệt sĩ ngã xuống ở hang Co Phương đều trẻ, lớn nhất mới 34, nhỏ nhất mới 18. "Chúng tôi hẹn nhau làm xong con đường ở xã Phú Lệ sẽ xung phong sang Sầm Nưa (Lào) làm nhiệm vụ để được gặp người yêu đang chiến đấu ở đó... Nhưng dự định chưa thành thì nhiều chị em đã không còn", bà Ngọt kể.
Trở về quê được đúng hai ngày và dù bị mảnh đạn găm vào chân, bà Ngọt vẫn lên đường đến thị trấn Phát Diện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, khiêng súng đạn giao cho bộ đội. Sau 5 lần tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến dịch, với tổng thời gian 2 năm, bà trở về quê lập gia đình ở tuổi 23.
Mảnh đạn găm vào ống đồng nhiều năm sau bà Ngọt mới phẫu thuật loại bỏ. Giờ cứ trái gió trở trời, vết thương lại tái phát, đau nhức. "Mỗi lần như vậy, ký ức về trận đánh bom năm xưa lại ùa về khiến tôi rơi nước mắt", bà chia sẻ.
Theo Sở Lao động Thương Binh và Xã hội tỉnh Thanh Hóa, có 27 dân công hỏa tuyến huyện Thiệu Hóa hy sinh tại xã Phú Lệ, trong đó 24 trường hợp tử trận ngày 2/4/1953 và ba người khác mất ngày 13/2/1952. Chính quyền Thiệu Hóa và cơ quan chức năng nhiều lần họp bàn phương án tìm hài cốt liệt sĩ ở Co Phương.
Giải pháp dùng công binh, nổ mìn phá đá mở cửa hang để quy tập hài cốt liệt sĩ từng được tính đến. Tuy nhiên, việc tìm kiếm và xác định danh tính dự kiến gặp rất nhiều khó khăn do thời gian và sức công phá của mìn. Sau đó thân nhân các liệt sĩ và chính quyền đã thống nhất giữ nguyên vị trí những người đã yên nghỉ trong lòng hang.
Hàng năm vào ngày ngày giỗ chung 2/4, ngày rằm, mùng 1 hoặc dịp lễ Tết, đại diện các cơ quan chức năng ở Thanh Hóa, thân nhân liệt sĩ và nhân dân địa phương đều đến Co Phương thăm viếng, dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống. Hang đá trở thành địa danh lịch sử, năm 2012 được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh, 7 năm sau được công nhận di tích cấp quốc gia.