Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1956, ông trùm sòng bài Warren "Doc" Bayley mở một khách sạn và sòng bài Hacienda tại Las Vegas, bang Nevada, Mỹ. Tọa lạc trên một dải đất đầy cát bụi phía nam thành phố, khách sạn mới khó lòng hút khách so với những tụ điểm ăn chơi tại khu trung tâm. Mark Hall-Patton, quản trị viên của hệ thống Bảo tàng Hạt Clark ở Las Vegas, cho biết: "Hacienda quá xa trung tâm thành phố. Mọi người sẽ nói: 'Tại sao phải đến Hacienda khi bạn có thể vui chơi ngay ở Las Vegas?'".
Warren muốn khách du lịch phải lái xe từ phía nam California tới nơi tận cùng của đại lộ Las Vegas Strip để thăm thú và nghỉ lại đây. Ông bèn thuê những đứa trẻ đứng ven đường, phát phiếu giảm giá cho cánh lái xe tải ở Barstow (quận San Bernardino, California, Mỹ). Không lâu sau, đội ngũ này được thay bằng một dàn mỹ nữ chân dài phát voucher - điều này thực sự khiến nhiều tài xế dừng lại hơn.
Mọi thứ trở nên thú vị hơn với Warren, khi Bob Timm (một số tài liệu ghi Robert Elgin Timm), một thợ cơ khí chuyên sửa máy đánh bạc cho sòng bài Hacienda, nảy ra một ý tưởng lạ. Timm là một cựu phi công từng tham gia Thế chiến II, thích phiêu lưu và biết đến kỷ lục bay liên tục trong 42 ngày tại thành phố Yuma (bang Arizona, Mỹ) vào năm 1949. Ông cho rằng thử thách phá kỷ lục đó sẽ gây tiếng vang, là cơ hội quảng bá cho Hacienda nếu tên khách sạn được vẽ trên máy bay. Ông trùm casino gật đầu và bỏ ra 100.000 USD đầu tư cho dự án này.
Timm mua một chiếc Cessna 172. Máy bay bị rút ruột toàn bộ nội thất, trừ ghế phi công. Ông phải sửa đổi rất nhiều: lắp một bồn rửa nhỏ, đặt một tấm thảm làm giường ngủ, tháo cửa hành khách thay bằng cửa xếp, thêm một bình nhiên liệu dưới bụng máy bay, thay các bộ lọc nhiên liệu và dầu, lắp một động cơ mới.
Timm và phi công phụ bay thử tới ba lần, nhưng đều thất bại vì máy móc hỏng hóc. Chuyến bay thứ ba chỉ kéo dài 17 ngày. Timm nhận ra rằng mình và phi công phụ không ăn ý. Do đó, ông tìm kiếm một phi công phụ mới và gặp John Wayne Cook, một chàng trai trẻ độc thân từ bang Illinois. John lúc này đang làm phi công dày kinh nghiệm của Alamo Airlines, đồng thời còn là một thợ cơ khí có bằng chứng nhận.
Vào ngày 4/12/1958, chiếc Cessna 172 chính thức khởi hành từ sân bay McCarran Field (Las Vegas). Màn cất cánh không hề khoa trương như khung cảnh ông trùm Warren mong đợi.
Bất cứ khi nào máy bay cần nhiên liệu hoặc hỗ trợ khác, Timm và John sẽ liên lạc với đội thợ cơ khí qua bộ đàm. Nhiên liệu được bơm thẳng lên bình chứa từ một chiếc xe tải chạy đua với máy bay trên đường cao tốc gần Blythe, California. Các đầu bếp của khách sạn Hacienda chuẩn bị những bữa ăn ngon cho hai phi công trong suốt chuyến bay. Tuy nhiên, thức ăn phải được băm nhỏ, cho vào các phích giữ nhiệt và đưa lên máy bay giống như mọi thứ khác.
Máy bay có chế độ lái tự động, Timm và John thay phiên nhau lái máy bay 4 giờ một lần. Họ ngủ khi không ngồi trên ghế phi công, hỗ trợ tiếp nhiên liệu hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác. Cả hai đã cố gắng thiết lập một lịch trình bao gồm cả giờ tập thể dục hàng ngày, nhưng nỗi buồn chán và thiếu ngủ vẫn bủa vây. Họ gặp nhiều thách thức khi bay đêm vì đường có rất ít đèn.
Rạng sáng 9/1/1959, Timm thấy mình ngủ thiếp đi khi đang lái máy bay. Dù máy bay có chế độ lái tự động, nó vẫn đi lệch đường. Từ đó họ cắt ngắn phiên trực, thay nhau cầm lái. John viết lại trong nhật ký của mình: "Lúc đó là 2h55 sáng và Timm đang chiến đấu với những giờ thức trắng. Thật may mắn. Chúng tôi cần phải ngủ nhiều hơn vào ban ngày thôi".
Tiếp đó, máy phát điện trên phi cơ bị hỏng. Trời vẫn rất lạnh vào tháng 1 nên Timm và John phải quấn chăn thật dày để giữ ấm khi không có máy sưởi. "Thật khó để giữ tỉnh táo trong một không gian tối tăm. Không thể dùng bộ đàm, máy bơm xăng cũng hỏng. Chúng tôi phải bơm xăng bằng tay, dùng ít đèn nhất có thể. Tôi không nhận ra điện quan trọng thế nào cho tới khi mọi thứ bất ngờ xảy đến. Ngồi trong bóng tối, ngoài kia không có ánh đèn nào soi sáng, đèn hết sạch pin. Tôi không thể nhìn thấy gì hỏng hóc để sửa nữa", John viết trong nhật ký.
Một chiếc xe hơi phải chạy đua với máy bay để đảm bảo nó không bao giờ hạ cánh xuống ven đường. Không có cách nào phi công có thể gian lận và hạ cánh tại một sân bay để tiếp nhiên liệu mà không bị phát hiện. Ngay sau khi chiếc Cessna 172 cất cánh, một anh chàng ngồi trong chiếc mui trần Ford Thunderbird chạy bên dưới đã vẽ dải sơn màu trắng trên bánh trước máy bay để làm dấu.
Tiếng vang của chuyến bay chỉ thực sự lan truyền khi Timm và John ở trên không tới ngày thứ 40 - 50. Ngày 20/1/1959, họ đã vượt qua kỷ lục 42 ngày bay liên tục trước đó tại Yuma. Cuối cùng, chuyến bay đáp xuống điểm ban đầu vào 7/2/1959 sau khi thực hiện hành trình trong 64 ngày 22 giờ 19 phút 5 giây. Họ đã đi một quãng đường dài hơn 241.400 km, gấp khoảng 6 lần một vòng trái đất.
Trở về nhà, Timm quay lại làm việc tại khách sạn Hacienda còn John tiếp tục lái máy bay cho các hãng hàng không. Chiếc Cessna 172 được trưng bày tại khách sạn khoảng 2 năm trước khi được bán cho một người nào đó ở Canada.
Timm qua đời năm 1976 ở Las Vegas. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông đã nhờ các con đi tìm chiếc máy bay. Con trai của ông, Steve Timm, xác định chiếc máy bay ở Saskatchewan, Canada và đưa về Las Vegas vào năm 1988.
Năm 1992, chiếc Cessna 172 trở thành vật trưng bày tại Bảo tàng Di sản Hàng không McCarran sau khi được phục chế. Hiện phi cơ huyền thoại này được treo trên trần khu vực nhận hành lý tại sân bay quốc tế McCarran, nơi nó bắt đầu và kết thúc chuyến bay dài nhất trong lịch sử hàng không.
Mãi nhiều năm về sau, Steve Timm mới bắt đầu hiểu những gì cha mình phải trải qua. "Bay giữa không trung trong 65 ngày, ở trên chiếc máy bay chỉ nhỏ như ôtô, không hạ cánh. Tiếng ồn của động cơ, những mối nguy hiểm, lái suốt đêm, và mọi thứ sơ suất đã có thể xảy ra. Cha tôi khi ấy mới ngoài 30 và trải nghiệm đó đã suýt lấy mạng ông ấy... Cha tôi và chú John thực sự may mắn khi sống sót qua thử thách đó, chưa nói đến chuyện phá kỷ lục thế giới", Steve nói.
Đã 60 năm trôi qua, kỷ lục của Timm và John tới nay chưa ai có thể phá vỡ. Tuy nhiên, danh tiếng của khách sạn sòng bài Hacienda không kéo dài như vậy. Khi Warren qua đời vào năm 1964, khách sạn qua tay nhiều chủ khác nhưng chưa bao giờ đạt lợi nhuận "khủng" như dưới thời của ông trùm casino.
Phạm Huyền (Theo USA Today)