- Bàn về tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng, một biện pháp được nhắc nhiều hiện nay là cho hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng yếu kém. Ông đánh giá thế nào về hiệu quả của quá trình này?
- Sáp nhập ngân hàng vừa đem lại lợi ích, nhưng vẫn hàm chứa nhiều rủi ro. Lợi ích là các ngân hàng yếu được hỗ trợ thanh khoản. Khi quy về một mối, cơ quan quản lý sẽ dễ dàng quản lý và tập trung nguồn lực để xử lý các tổ chức tín dụng gặp nhiều nguy cơ, thay vì trước kia mỗi nơi lại xuất hiện một khó khăn.
Việc hợp nhất phải dựa trên lợi ích kinh tế giữa các ngân hàng, tức các ngân hàng phải có điểm mạnh bổ khuyết cho nhau. Song, trong trường hợp nhiều ngân hàng yếu hợp nhất và không thấy điểm mạnh ở đâu, nguy cơ có thể tạo ra một ngân hàng yếu lớn hơn, khó khăn sẽ bị cộng dồn. Trước đây, ngân hàng nhỏ sụp đổ có thể không sao, nhưng nếu lớn sẽ nguy hiểm. Cần có những giải pháp để các tổ chức tín dụng sau khi hợp nhất, sáp nhập phát triển bền vững.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn nhận định những ngân hàng yếu kém nên bị loại bỏ. |
Hiện chúng ta mới xử lý từng ngân hàng, trong khi tái cơ cấu đòi hỏi phải dựa trên tổng thể hệ thống tài chính nói chung. Các cuộc khủng hoảng tài chính cho thấy từng ngân hàng hiệu quả, lành mạnh chưa chắc đã tạo ra một hệ thống lành mạnh và cạnh tranh. Thước đo cuối cùng đánh giá hiệu quả của một phương án tái cấu trúc là nguồn vốn phải được phân bổ hiệu quả, nhưng quá trình này lại đang bị ách tắc, vốn không đến được những nơi cần thiết.
- Vậy theo ông giải pháp với những ngân hàng yếu kém là gì?
- Những gì yếu kém nên bị loại bỏ để cho những cái mới tốt, cạnh tranh hơn nổi lên. Nếu anh cứ nằm đó như một xác chết sẽ ảnh hưởng đến hệ thống. Cho phá sản là điều bình thường, thậm chí có thể coi quá trình này là sự hủy diệt mang tính sáng tạo. Chúng ta có thể chuyển toàn bộ tiền và lợi ích của khách hàng sang một ngân hàng khác, sau đó xóa sổ ngân hàng đó. Đừng nghĩ phá sản là quá nghiêm trọng.
Nếu cứ áp đặt tư duy không để cho ngân hàng phá sản để tránh gây đổ vỡ, điều này sẽ làm nảy sinh ra tâm lý ỷ lại, rủi ro đạo đức vì nếu biết anh không bao giờ để tôi vỡ thì tôi sẽ coi tôi là “too important to fail” (quá quan trọng để đổ vỡ). Việc không thể đổ vỡ cũng khiến cách hành xử trở nên rủi ro hơn. Tôi nghĩ quan điểm này phải thay đổi.
- Nói sở hữu chéo là nguyên nhân của nợ xấu, ông bình luận thêm gì về điều này?
- Sở hữu chéo, mà theo nghiên cứu của chúng tôi còn dùng từ khác là sở hữu chồng chéo, tạo ra rất nhiều hệ lụy mà cần giải quyết, trong đó có nợ xấu. Nếu chúng ta chỉ xử lý nợ xấu mà không xử lý sở hữu chồng chéo đằng sau thì căn bệnh của hệ thống ngân hàng không thể chữa khỏi, gây mối nguy về sau. Chẳng hạn sau 5-7 năm, nợ xấu có thể được xử lý, song nếu xử lý căn cơ hơn thì vấn đề này không chỉ giải quyết trong ngắn hạn mà có thể tạo động lực trong dài hạn.
Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia thì sở hữu chéo không nhất thiết là điều xấu, vấn đề là điều kiện. Trong điều kiện thể chế tốt thì sở hữu chéo là tốt, còn trong thể thế tồi thì sẽ gây hại. Như Nhật Bản trong thập niên 50-70 của thế kỷ trước, nhờ sở hữu chéo mà quốc gia này đã tạo ra nguồn vốn lớn phân bổ cho quá trình công nghiệp hóa. Song, ở Việt Nam, với cấu trúc sở hữu như hiện tại, vốn không thể phân bổ cho các lĩnh vực chế biến chế tạo, chứng khoán, bất động sản. Do đó, điều cuối cùng vẫn phải là tháo gỡ nút thắt về thể chế.
Bài toán đặt ra hiện nay là phải xử lý các bế tắc, như phải làm sao giảm được xung đột lợi ích, tách quyền sở hữu và quyền giám sát, đặc biệt là trong khu vực ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước, bởi trong đó Ngân hàng Nhà nước vừa là người sử hữu vừa là người chịu trách nhiệm thực thi.
Đồng thời, cần tăng tính kiểm soát của thị trường, bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông, giảm những hệ lụy tiêu cực. tạo lập khuôn khổ giám sát để tăng cường chức năng giám sát tổng thể… Trên thực tế, chúng ta không thiếu các quy định, mà chỉ là thực hiện chưa thực sự nghiêm túc.
- Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân năm nay, các chuyên gia cho rằng Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) hoạt động chưa hiệu quả, ông đánh giá sao về việc này?
- VAMC được thành lập trên nguyên tắc không dùng tiền thực của Nhà nước để xử lý nợ xấu, song hiện nay lại có những rào cản thu hút nhà đầu tư nước ngoài, khiến ta hiểu rằng nguồn lực cho VAMC phải xuất phát từ chính khu vực tư nhân trong nước. Trong điều kiện khó khăn hiện nay, khu vực tư nhân lấy đâu ra nguồn lực thực sự. Tôi cho rằng chúng ta đang quá thận trọng. Qua những buổi tiếp xúc với nhà đầu tư nước ngoài, nhiều tổ chức mong muốn tham gia vào thị trừng mua bán nợ Việt Nam nhưng vướng nhiều rào cản.
- Nhiều tổ chức quốc tế vẫn nghi ngại về con số nợ xấu của Việt Nam, vậy các nhà đầu tư quốc tế bày tỏ như thế nào?
- Theo tôi, việc biết chính xác quy mô nợ xấu cần thiết cho quản lý, nhưng về mặt mua bán nợ thì có thể không. Các ngân hàng có thể tách từng khoản nợ hoặc phân thành các nhóm để bán. Từng ngân hàng sẽ biết được rủi ro khoản nợ là như thế nào. Còn nhà đầu tư, họ cũng mua từng khoản nợ, như nhóm nợ về bất động sản, chế biến chế tạo chứ họ không quan tâm đến nợ xấu đang chiếm 5 hay 8%.
Phương Linh