Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa công bố Kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Cửu Long mùa cạn năm 2025-2026, cho thấy tổng thể nguồn nước mặt và nước dưới đất cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và an sinh xã hội, dù vẫn tiềm ẩn nguy cơ thiếu nước cục bộ tại một số khu vực ven biển.
Cầu Rạch Miễu 2 bắc qua sông Tiền, nối Đồng Tháp và Vĩnh Long. Ảnh: Hoàng Nam
Mưa và dòng chảy thuận lợi
Mùa mưa năm 2025, lượng mưa trên toàn lưu vực sông Mê Công phổ biến cao hơn trung bình nhiều năm 25-35%. Riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mưa đầu mùa (tháng 6-8) thiếu hụt 10-50%, nhưng từ tháng 9-10 đã cải thiện rõ rệt. Nhiều nơi như Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ ghi nhận lượng mưa cao hơn trung bình 58-82%.
Nhờ mưa và dòng chảy thuận lợi, tổng lượng dòng chảy sông Mê Công tại trạm Kratie từ tháng 6-10 đạt khoảng 364,6 tỷ m3, cao hơn trung bình nhiều năm 33%. Biển Hồ (Tonle Sap) - nguồn điều tiết quan trọng cho hạ lưu đạt dung tích lớn nhất 54,1 tỷ m3 vào giữa tháng 10 và duy trì mức cao hơn trung bình nhiều năm khoảng 24% vào cuối tháng.
Tại đầu nguồn đồng bằng, tổng lượng nước về trạm Tân Châu trong giai đoạn này đạt 273,6 tỷ m3, cao hơn trung bình nhiều năm hơn 31%. Mực nước cao nhất ghi nhận 3,91 m, cao hơn cùng kỳ năm trước trên 0,5 m, tạo nền tích trữ thuận lợi cho mùa khô.
Nguồn nước mặt nội đồng cải thiện
Đến cuối tháng 10, lượng nước trữ trong hệ thống sông, kênh rạch nội đồng ở đồng bằng sông Cửu Long cao hơn nhiều năm trước do mùa mưa kết thúc muộn. Các vùng ngọt duy trì mực nước phổ biến từ báo động một đến báo động hai; vùng ngọt - lợ có sự phân hóa theo ảnh hưởng triều và lũ; trong khi vùng lợ - mặn mực nước thấp hơn nhưng nhìn chung vẫn trong tầm kiểm soát nhờ hệ thống cống, đập ngăn mặn.
Dự báo từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026, tổng lượng nước về đồng bằng qua Tân Châu và Châu Đốc đạt 150-170 tỷ m3, cao hơn trung bình nhiều năm 10-25%. Dòng chảy tại trạm Kratie cũng được dự báo cao hơn trung bình 10-25%, giúp giảm áp lực thiếu nước trong cao điểm mùa khô.
Nước dưới đất ổn định nhưng cần giám sát
Nguồn nước dưới đất trên lưu vực sông Cửu Long hiện tồn tại trong 7 tầng chứa nước chính. Quan trắc giai đoạn tháng 6-10/2025 cho thấy mực nước nhìn chung ổn định, có xu hướng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Tại khu vực Tây Bắc (An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh), mực nước dao động 2,3-17,8 m; khu vực trung tâm (Cần Thơ, Vĩnh Long) khoảng 10-24 m; vùng ven biển từ Vĩnh Long đến Cà Mau phổ biến 8,7-27,6 m. Một số khu vực có phễu hạ thấp mực nước do khai thác tập trung, song mực nước động lớn nhất vẫn chưa vượt ngưỡng cho phép 35 m.
Dự báo mùa cạn 2025-2026, mực nước dưới đất cơ bản xấp xỉ cùng kỳ năm trước, đủ khả năng cấp nước cho các công trình khai thác, song các đô thị ven biển và vùng cuối nguồn cần theo dõi chặt chẽ.
Kế hoạch sử dụng nước
Theo kịch bản, nhu cầu sử dụng nước toàn lưu vực từ tháng 11 đến tháng 5/2026 tăng khoảng 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng nhu cầu nước cho nông nghiệp khoảng 24,5 tỷ m3, tập trung cao nhất vào các tháng 1-2 tại An Giang, Đồng Tháp và Tây Ninh.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường khuyến nghị các địa phương lập kế hoạch khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, kết hợp linh hoạt giữa nước mặt, nước dưới đất và nước mưa. Ưu tiên đảm bảo nước sinh hoạt trong mọi tình huống, đồng thời điều chỉnh lịch thời vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp với diễn biến mặn - ngọt.
Dự báo xâm nhập mặn mùa khô 2025-2026 ở mức thấp hơn mùa khô 2024-2025, song vẫn có nguy cơ cục bộ tại một số khu vực ven biển thuộc Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cà Mau, do hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ.
Bộ đề nghị các địa phương tăng cường tích trữ nước, vận hành hiệu quả hệ thống cống ngăn mặn, nâng cao năng lực cấp nước tập trung và kiểm soát chặt khai thác nước dưới đất. Về tổng thể, nguồn nước sông Cửu Long mùa cạn 2025-2026 được đánh giá ở trạng thái bình thường, đủ đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nếu được quản lý và sử dụng hợp lý.
Thế Đan